Free Website Hosting

Chương 4
Cuộc chiến đấu mới, mặt đối mặt với quân thù

Sau chiến thắng tuy nhỏ nhưng vang dội vì cách đánh rất táo bạo ngay trong lòng địch, tôi đang đi sang các xã khác dọc theo đường số 5 thuộc đất Kim Thành vừa tuyên truyền chiến thắng vừa chuẩn bị một trận chiến khác, thì được lệnh ra Thanh Hà gặp cấp trên.

Đó là đầu tháng 4-1950, tôi cùng Ban Thường vụ huyện uỷ đến thôn Phù Tinh khu Hà Đông thuộc huyện Thanh Hà, Hải Dương, gặp đồng chí Lê Thanh Nghị, Phó Bí thư Liên khu uỷ III, Bí thư phân khu uỷ Tả ngạn Sông Hồng về làm việc với Huyện uỷ. Có các đồng chí Đào Đức Chính - phó Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính tỉnh Hải Dương và một số đồng chí khác.

Sau buổi làm việc xong, anh Nghị gặp tôi nói chuyện và hỏi tôi về tình hình khu tạm chiếm Kim Thành, trận đánh độn thổ ở Thanh Liên. Rồi Anh nói: “Tôi về kiểm tra 4 tỉnh và Thành phố Hải Phòng thuộc Tả Ngạn Sông Hồng, tôi đã quyết định chia Hải Phòng làm 3 quận, nay thiếu cán bộ chủ chốt làm Bí thư Quận uỷ. Tỉnh uỷ Hải Dương giới thiệu đồng chí về làm Bí thư một quận”.

Tôi đang quen công tác ở nông thôn, gắn bó với Kim Thành, đường 5 khói lửa, nay sang một môi trường mới, tôi đang phân vân suy nghĩ, anh Nghị nói ngay: “Đồng chí vào công tác nội thành thích hợp đấy, sẽ quen dần...”. Lúc đó tôi mới 21 tuổi và cũng hơi đẹp trai, nên anh Nghị tỏ vẻ mến tôi lắm. Tôi trả lời anh: “Đảng điều động đi đâu, tôi xin chấp hành nghiêm chỉnh...”. Và kể từ đây tôi biết anh Nghị, rất quý anh.

Tháng 6-1950 tôi sang Đèo Voi, nơi Thành uỷ Hải Phòng sơ tán thuộc đất huyện Sơn Động tỉnh Bắc Giang, tôi lại gặp anh Nghị. Anh đã viết xong quyển Bệnh cẩu an, cho tôi một quyển. Tôi hỏi anh sao lại gọi là “cẩu an” chứ không phải “cầu an”. Anh giải thích “cẩu an” là con chó nằm yên, chữ có dùng ý phê bình cán bộ, đảng viên nhiều nơi trong khu Tả Ngạn sợ chết, như con chó không dám hoạt động gì, đầu hàng, đầu thú... còn “cầu an” thì nhẹ quá. Cần nghiêm khắc phê bình nên phải dùng “cẩu an”. Đầu quyển sách nhỏ, thay lời tựa, anh Nghị viết những lời hết sức trân trọng quí mến Bác Hồ như có câu: “Để mừng ngày sinh nhật Người 19-5, con xin kính dâng lên Người bài viết này...”.

Khoảng tháng 5-1950 tôi nhận được nghị quyết của Tỉnh uỷ Hải Dương điều sang công tác ở Hải Phòng, do đồng chí Trần Tạo- Quyền Bí thư Tỉnh uỷ kiêm Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính Hải Dương kí (lúc này anh Nguyễn Năng Hách là Bí thư Tỉnh uỷ đang ở Khu căn cứ địa Chí Linh). Tôi đến chào anh Trần Tạo để sang Hải Phòng công tác. Tỉnh uỷ đóng ở thôn Bàu Bửa thuộc khu Hà Đông, Thanh Hà. Anh Trần Tạo gặp tôi rất vui vẻ. Anh nói: “Tỉnh uỷ đã chọn rất kĩ số cán bộ của tỉnh, nay chọn đồng chí sang Hải Phòng công tác, đồng chí cố gắng làm tròn nhiệm vụ. Tỉnh uỷ trước đây đã dự kiến đưa đồng chí sang làm Bí thư Huyện uỷ Kinh Môn, nhưng theo yêu cầu của Khu uỷ, Tỉnh uỷ cử đồng chí sang Hải Phòng”. Tôi hỏi thêm anh Trần Tạo về một số tình hình ở Hải Phòng, anh bảo tôi: “Chắc đồng chí Phó Bí thư Liên Khu uỷ đã nói rõ tầm quan trọng của địa bàn Hải Phòng với đồng chí rồi...” Sau đó, anh bảo Văn phòng lấy 500 đồng tiền cụ Hồ, có in hình con trâu xanh cho tôi, để có tiền đi đường sang Đông Triều, đến Đèo Voi Bắc Giang nhận công tác tại Thành uỷ Hải Phòng.

Nhớ phong trào! Nhớ nhân dân! Nhớ đồng chí! Đặc biệt là thương vợ mới cưới được 10 tháng. Dù đồng chí Phí Thị Tâm lúc đó mới 18 tuổi, đã trưởng thành, vào Đảng từ năm 16 tuổi, đã làm Bí thư phụ nữ xã Bình Dân, nhưng tình chồng vợ hương lửa đang nồng, chia tay nhau sao khỏi bịn rịn. Hôm tiễn đưa tôi sang Hải Phòng công tác, đứng dưới gốc cây gạo thôn Tường Vu, cây gạo có hàng trăm tuổi, (nay vẫn là cây cổ thụ sống lâu nhất vùng), vợ tôi nước mắt lưng tròng, bắt tay tôi, mặt quay đi để tôi không nhìn thấy giọt lệ tuôn trào. Một số đồng chí xã Cộng Hòa như đồng chí Long, đồng chí Ngoạn Huyện uỷ viên cũng đến gốc cây gạo tiễn tôi. Nửa tiểu đội dân quân du kích xã Cộng Hòa đưa tôi vượt đường 5, đến thôn Cam Đông xã Việt Hưng. Tôi ngủ lại một đêm, chiều hôm sau qua Kinh Môn đến trạm giao thông Nhị Chiều của Hải Phòng để được dẫn đến Đèo Voi Bắc Giang gặp Thành uỷ Hải Phòng. Giúp tôi đi đường xa, huyện đội Kim Thành cử chú Phết liên lạc của huyện đội đi với tôi đến Đèo Voi, sau một tháng chú Phết trở lại Kim Thành.

Đến Hải Phòng, nằm chờ ít ngày ở núi Cò Nhớn Đèo Voi, tôi gặp đồng chí Văn Bút, Bí thư Huyện uỷ An Dương, Kiến An, đồng chí Giản tức Kim, Thường vụ Huyện uỷ Thái Ninh tỉnh Thái Bình đến nhận công tác làm Bí thư Quận uỷ, cùng ở Đèo Voi. Cơm hẩm cá khô, rau muống, đồng chí Bút sau này thường nhắc đi nhắc lại nhiều lần: “Một con cá phèn, sáng tôi ăn đầu, anh Thành ăn đuôi, chiều tôi ăn đuôi, anh Thành ăn đầu...”. Cho đến tháng 6-1950 tôi nhận quyết định về làm Bí thư Quận uỷ Ngô Quyền kiêm Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính, Chính trị viên Quận đội. Đồng chí Nguyễn Văn Bút, Bí thư Quận uỷ Bạch Đằng, đồng chí Giản tức Kim vì không quen công tác nội thành nên không dám nhận chức Bí thư Quận uỷ. Thành uỷ quyết định cử đồng chí Minh Sơn làm quyền Bí thư Quận uỷ Cửa Cấm. Sau khi có quyết định tôi đã nhanh chóng hình thành bộ máy cơ quan Quận. Có điều lúc này Thành uỷ đã chủ trương chuyển hướng, chỉ đấu tranh chính trị, không đấu tranh vũ trang. Ngay cả 2 huyện Thủy Nguyên và Hải An cũng không đấu tranh vũ trang. Bởi vậy tổ chức ra Quận đội rất hình thức, thêm cồng kềnh, có vũ khí không được nổ súng. Tôi quen hoạt động ở Kim Thành, cán bộ chính trị dân vận cũng được đào tạo và trang bị cho súng ngắn, lựu đạn, nếu cần là chiến đấu ngay. Nay có súng phải giấu đi, địch đến bắt phải giơ hai tay cho chúng trói, chúng còng. Nghĩ lại bây giờ thấy rất tiếc Những lúc địch sở hở, ta chỉ cần một quả lựu đạn có thể diệt hàng chục tên địch!

Khoảng cuối năm 1950 tôi đang ở ven đô, xã Kiền Bái thuộc huyện Thủy Nguyên để củng cố cơ sở khu 6 thuộc quận Ngô Quyền bị phá vỡ. Bí thư chi bộ, chi uỷ như các đồng chí Huệ tức Hoạt, đồng chí Tố, đồng chí Học, đồng chí Sơn... đều đã bị bắt. Tôi củng cố vừa xong, cử đồng chí Hồng Sơn 40 tức Sơn thọt tạm thời làm Bí thư chi bộ... thì được triệu tập về Đèo Voi họp, vì Thành uỷ có chủ trương tăng cường cán bộ cho Quận, cử các đồng chí Thành uỷ viên hoặc Thường vụ Thành uỷ xuống làm Bí thư Quận uỷ. Quận tôi do đồng chí Nguyễn Mạnh Ái làm Bí thư, tôi xuống làm Phó Bí thư còn các chức vụ khác vẫn giữ nguyên. Đồng chí Hoàng Mậu uỷ viên Thường vụ làm Bí thư quận uỷ Bạch Đằng, đồng chí Nguyễn Văn Phùng làm Bí thư Quận uỷ Cửa Cấm. Các Quận về đóng rải rác ở Thủy Nguyên, Kinh Môn.

Sang năm 1951 tôi làm xong giấy tờ vào nội thành hoạt động.

Trận chiến đầu tiên

Cảng Hải Phòng lúc này là cái cuống họng của đội quân viễn chinh Pháp ở Bắc Bộ, nên chúng bố phòng rất chặt chẽ. Mật thám, chỉ điểm giăng khắp các nẻo phố, nhung nhúc như rươi, hung ác hơn cả dã thú. Vì hoạt động trong lòng địch nên tôi giữ rất nghiêm ngặt nguyên tắc bí mật. Khi đến Hải Phòng, tôi đóng vai người dân ở Hà Nội xuống Cảng tìm mối buôn bán. Mọi việc nói chung được trôi chảy, thuận lợi...

Mùa thu năm 1951 Hải Phòng kỉ niệm 2 ngày lễ lớn của dân tộc 19-8 và 2-9. Năm đó có sự chuyển hướng đấu tranh trong lòng địch. Thành uỷ quyết định không treo cờ và rải truyền đơn như mọi năm mà tổ chức từng nhóm, tổ ba người, cùng với quần chúng cảm tình cách mạng đi nói chuyện tới từng gia đình, từng người về cách mạng tháng Tám, về Hồ Chủ Tịch, về cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược, vận động nhân dân chống bắt lính, ủng hộ kháng chiến, đưa con em ra vùng tự do tòng quân giết giặc...

Trong bối cảnh đó, ngày 18-9-1951 lúc tôi đang ăn cơm tối với ông chủ nhà, ông Ngỗi, là cơ sở của ta, thì bị sa vào tay địch. Nguyên do Lê Thanh là Phó Bí thư Huyện Hội phụ nữ huyện Hải An bị giặc bắt, không chịu được đòn thù của địch đã khai phá cơ sở.

Lúc bọn mật thám nhốn nháo xông vào nhà ông Ngỗi, chúng kéo theo cả một số người vừa bị bắt, người nào cũng thâm tím mặt mày, áo quần bết cả bùn lẫn máu. Tôi buông đũa nhìn ra: anh Hùng (Điều) giao thông viên quận tôi, anh Tham (Rỗ) Phó thư kí công đoàn khu 6 thuộc quận Ngô Quyền, anh Đào Hữu Thăng, chị Khương và bốn, năm người nữa đều là cơ sở cách mạng. Thấy nguy cơ bị bắt, tôi tháo vội chiếc đồng hồ và chiếc nhẫn vàng quẳng xuống gầm giường. Nhưng quan trọng là làm thế nào để thông tin cho các đồng chí của tôi vừa bị bắt đừng có nhận nhau, đừng có khai báo. Thằng Xếp Hòa lấy tay đẩy tôi ra khỏi cửa và hỏi: “Anh biết những đứa này chứ?”.

Lợi dụng câu hỏi, tôi nhìn thẳng vào mấy chỗ anh chị em vừa bị bắt và lên tiếng trả lời:

- Không? tôi không hề quen biết mấy người này. Tôi không biết họ là ai, bởi tôi mới ở Hà Nội xuống đây tìm người nhà.

- Mày nói dóc!

- Hắn vừa nói vừa phẩy tay ra lệnh cho mấy tên ác ôn lục soát trong nhà.

Tôi vẫn cố ý cãi to:

- Tôi là người Hà Nội, thẻ căn cước của tôi ở Hà Nội! Giấy đi khám bệnh ở Hà Nội. Tôi vừa xuống đây tìm người nhà để tìm mối buôn bán.

Thằng mật thám Tây lai Mác-tanh, xem giấy tờ của tôi, có một thoáng ngần ngừ song vẫn phẩy tay ra lệnh:

- Mặc áo vào.

Tôi đứng yên không mặc.

- Đù mẹ thằng này bướng!

Thằng Phúc vừa chửi vừa thẳng tay nện hai quả thật lực vào ngực tôi đánh “hự”, lấy còng khoá tay và ấn tôi lên xe. Chiếc xe chật ních người. Mặc mấy tên chỉ điểm ngồi kèm sát, tôi đưa mắt nhìn từng người và lắc đầu ngầm ra tín hiệu cho các đồng chí của tôi không khai, không nhận nhau. Về bốt Cống Trắng- Cát Bi, hành dinh của bọn mật thám không quân, tôi đã thấy Lê Thanh. Hình như sau khi chị đã khai báo, địch nới tay cho chị ra ngoài phòng giam. Thấy tôi, chị liền giơ tay đấm vào bụng tôi ba bốn đấm, nói trước mặt mấy tên mật thám:

- Mày biết võ nghệ của tao chưa?

Tôi nhìn chị nửa giận, nửa thương hại, nói luôn:

- Võ của chị đánh tôi không đau đâu, mà tay chị mới đau.

- Tao đã khai mày là chủ tịch rồi!

Tôi trừng mắt nhìn chị và nói:

- Tôi quen biết gì chị? Chị là phụ nữ mà ăn không nói có, chị không để đức cho con cháu mai sau à? Tôi xưa nay không hề quen biết chị.

Nghe tôi nói hai mắt chị cụp xuống, quay mặt và lảng đi về phía buồng giam tù.

Chúng đẩy tôi vào xà lim. Lúc này một phần lo cho bản thân, phải chuẩn bị gồng mình chịu tra tấn, nhưng lo hơn cả là số đồng chí của tôi vừa bị bắt. Phải làm thế nào giữ vững tinh thần của các đồng chí, không khai báo, không nhận nhau? Nếu để chúng tra hỏi họ trước, có thể sẽ rất nguy, danh tính của tôi cùng cơ sở sẽ bị lộ hết.

Vào đây tôi được biết cứ 12 giờ đêm chúng mới lôi người bị bắt lên tra tấn hỏi cung. Hôm ấy chừng 11 giờ tôi đập cửa xà lim, gọi rầm lên. Bọn chúng đang ngủ, chồm dạy chửi tục:

- Tiên sư thằng này, mày định khai báo hay sao?

- Tôi người Hà Nội xuống đây, là người dân lương thiện, sao các ông lại bắt mà không hỏi cho rõ, lại giam ở đây không cho về?

- Đ. mẹ thằng này làm ông mày mất giấc ngủ hả? Lôi cổ nó lên đây! Cho nó, nếm thử các món xào xáo của các ông Tổ sư nhà trời!

Chúng lôi tôi lên đấm đá một hồi, nhưng tôi vẫn cãi to, cố ý để mấy đồng chí dưới xà lim nghe thấy:

- Tôi có đủ giấy tờ hợp lệ của các ông cấp. Tôi là người Hà Nội, các ông bắt oan tôi!

Quả nhiên sáng hôm sau chúng điệu tôi lên đánh trước, đánh quyết liệt.

- Thằng này đêm qua đánh lừa chúng ông...

Chúng dùng găng tay đấm bốc đánh vào hai bên thái dương, vào mặt, đánh thúc vào ngọc hành, chúng “xin âm dương” khi tôi đứng lên, đá mũi giày vào mạng sườn khi tôi ngã xuống. Thằng Đới “hứ hự” to khoẻ nên những cú đá của nó rất nặng cân. Chiếc xương sườn bên trái tôi, nơi có cái nhọt, bị gãy, máu me chan hòa, máu càng vọt ra khi chính tay nó cầm gậy tre thọc sâu vào nơi đó...

- Cơ sở mày ở đâu? Tài liệu mày để đâu? Súng và con dấu mày để đâu?

Tôi chỉ còn nghe láng máng lời tra hỏi, lúc ngất đi, khi tỉnh lại. Nhưng khi tỉnh lại tôi vẫn một mực trả lời không chút khiêu khích:

- Tôi hồi cư về Hà Nội, về cùng các ông, kiếm sự an toàn của các ông. Tôi xuống đây tìm người nhà để làm ăn buôn bán. Xuống đây tôi đã đi trình báo...

- Sao thằng Tham nó biết mày?

- Tôi chỉ đến hiệu nó may cái áo sơ mi. Tên tôi nó còn chưa biết. Các ông đánh nó đau quá, nó nói liều để đỡ đòn đó thôi.

Máu chảy nhiều quá, chiếc sơ mi đẫm máu, tôi ngất đi, tỉnh lại không rõ bao nhiều lần. Chúng khiêng tôi vứt về xà lim. Lúc chúng điệu tôi qua cửa những buồng giam số anh em bị bắt hôm qua, với thân hình mềm nhũn, áo quần rách tả tơi đầm đìa máu đỏ hẳn số anh chị em này biết tôi không khai, không nhận. Đau đớn nhưng tôi thấy yên lòng là bằng hành động này tôi đã ngầm thông tin cho các đồng chí của tôi phải gắng chịu đựng để đảm bảo cơ sở

Sau trận đòn ngày đầu, thân thể tôi bầm tím, máu bên sườn vẫn chảy, chẳng có thuốc mà cũng chẳng có băng. Tôi xé những mảnh áo rách nối lại làm băng buộc thấm máu. Những ngày tiếp chúng đánh tôi bằng nhiều cách khác, cho chết mà không có thương tích.

Có lẽ chúng thấy giấy tờ của tôi hợp lệ là người Hà Nội, nên cũng gờm, sợ tôi có thế lực ở trên đó. Vì vậy chúng thay đổi cách đánh. Tra điện qua ngọc hành. Mỗi lúc dòng điện chạy qua thắt cuộn ruột gan, cả người tôi co rúm lại, máu nơi vết đâm phọt ra ướt đất. Tra điện vào mang tai, từng lúc tôi thấy đầu tôi như vỡ tung ra với muôn ngàn con đom đóm. Tôi lại ngã vật xuống, ngất đi. Khi tỉnh lại miệng khô đắng và khát nước, thèm nước. Chúng cho tôi uống nước vôi. Không uống thì chúng đè ra lấy muỗng tống muối vào miệng rồi đổ nước vôi cho muối trôi xuống. Đòn treo, treo ngược đầu xuống đất, treo hai tay quặt sau lưng, rồi dùng thước nện hai bả vai, hai bên đùi. Tôi có cảm giác như con chó sắp bị đem cắt tiết. Mỗi khi chúng buông thừng xuống, tôi đều bất tỉnh. Đợi khi tôi mở được mắt, chúng lại lải nhải dồn mấy câu hỏi cũ: “Con dấu mày để đâu? Cơ sở mày ở đâu?..” Tôi vẫn chậm rãi trả lời, không khiêu khích nhưng cũng không van xin:

- Tôi chỉ là người dân hồi cư về Hà Nội, về cùng các ông. Xuống đây tìm người nhà để buôn bán. Các ông xét xem nếu tôi là Việt Minh thì sao khi xuống đây tôi lại đi trình báo hộ khẩu ngay.

- Thế mày tìm ai? ở đâu?

- Tôi mới xuống được vài ngày đang đi tìm chưa thấy, chứ nếu đã tìm được xin trình báo các ông ngay.

- Sao nhiều đứa bảo mày là chủ tịch?

- Tôi ở Hà Nội, có quen biết ai ở dưới này đâu. Các ông đánh quá đau, chúng khai lung tung thế.

Mười ngày qua, trận đòn nọ nối tiếp trận đòn kia. Đêm đó khoảng mười hai giờ tôi thấy chúng rì rì chạy một cái xe jeep đến. Có thằng Pơ-lê, xếp Hòa và lao xao một lũ ác ôn. Chúng mở cửa xà lim giam tôi. Tôi thấy chúng lôi trong xe ra một cái bao tải lớn. Tôi chắc hôm nay mình sẽ bị chúng giết chết. Bởi ở nơi đây có biết bao nhiêu lần chúng làm như vậy. Chúng tống người vào bao buộc lại, quăng lên ô tô và đưa ra sông Lạch Tray, vứt tòm xuống, hoặc đào hố chôn ngay trên bãi. Sau khi hòa bình lập lại, ta đào bãi có biết bao bộ xương của những người con yêu nước vô danh. Thằng Hòa nhìn tôi nhún vai nói:

-Tao đã bảo mày khai thì chỉ cần khai một người, một việc, là mày được sống. Không cơ sở, không tài liệu, mày phải chết. Hôm nay tao cho mày hết cái gan, cái lì của mày đi. Tao sẽ chôn sống mày.

Vừa nói nó vừa vẫy tay ra lệnh cho mấy tên ác ôn khiêng tôi nhét vào bao. Còn thằng Pơ-lê thì giở phép lịch sự của bọn quỷ sứ, giơ tay ngang mũ, kiểu chào vĩnh biệt người chết. Chúng kéo dài việc khâu, buộc miệng bao. Tôi nằm trong bao thoáng nghĩ đến Tâm, người vợ hiền của tôi, song tự đáy lòng thấy cái chết đến yên ắng. Trong suốt mười ngày vượt qua đòn thù tra tấn, sức lực tàn kiệt, máu bên sườn nơi cái nhọt bị đâm thủng vẫn rỉ ra, nhưng tinh thần tôi vẫn vững vàng. Bao nhiêu cơ sở, bao nhiêu đồng chí cấp dưới trong cơ quan của tôi, bao nhiêu tài liệu, súng ống tôi đã giữ được trọn vẹn cho Đảng, cho cách mạng. Tôi mở mắt ra. Trong bao tối om, hình như chỉ có cái đốm trên đỉnh đầu, nơi bộ óc còn loé sáng. Nằm trong bao và yên trí chỉ lát nữa tôi vĩnh biệt cuộc sống, nhưng tôi vẫn nói vọng ra: “Sao các ông lại giết tôi? Giết một người dân hồi cư theo lời kêu gọi của các ông”, nói đến đó thì tôi nghe thấy thằng Hòa ra lệnh: “Cởi ra đã”.

Chúng lại tháo nút buộc. Thằng Hòa đến cạnh bao ôn tồn thuyết phục:

- Anh là người có học, thông minh, tôi tiếc cho anh biết mấy. Chúng tôi đánh kẻ chạy đi, chứ không ai đánh kẻ chạy lại. Anh chỉ cần khai liên lạc với ai. Chỉ cần nói một người, một người thôi, thì ngày mai tôi lập tức cấp giấy tha anh ngay.

Chả là những khi bị tra tấn tôi chỉ nói xuống đây tìm người nhà, nay nó hỏi liên lạc với ai. Tín hiệu này tôi đã thoáng thấy chúng đã có nghi ngờ bọn chỉ điểm nói tôi là chủ tịch. Tôi trả lời ngay:

- Tôi hồi cư về Hà Nội, tin là vào trong này sẽ an toàn, có sự bảo trợ của các ông, sao các ông lại giết tôi, giết một người dân hồi cư theo lời kêu gọi của các ông? Nếu như đã tìm được người nhà, tôi đã thành thực khai, giấu các ông làm sao được. Nghe vậy thằng Hòa lại quát lên:

- Thằng này muốn chết, phải chết - y lại ra lệnh - Khâu bao và tống mẹ nó xuống sông. Hai ba thằng lại túm đầu ấn tôi vào bao. Thằng Focquet (Phốc-kê) lái xe, mở máy rì rì, ỉn ỉn như chuẩn bị chuyển bánh. Tôi vẫn nói vọng ra:

- Tôi không khai thì các ông cho là không trung thực, nhưng nếu nói bừa thì lại có lỗi với các ông.

Thằng Hòa lại quát:

-Mày nói lí, hôm nay chúng tao sẽ chiều theo ý mày! Sẽ chôn sống mày.

Chúng vẫn buộc miệng bao chầm chậm. Tôi lại mở mắt ra. Tối đen, chỉ có hơi xăng của chiếc xe đang nổ máy xộc vào mũi. Hình ảnh Tâm vẫn chập chờn trước mắt, tôi thấy nhói lên một niềm thương. Hình ảnh thành phố cảng, những khu phố quen thuộc mà hàng ngày tôi qua lại, ngập ngụa bóng Tây say, những đồng chí của tôi lặn lội ngày đêm trong lòng địch, những bà mẹ cơ sở nuôi sống tôi. Tất cả hiện lên mồn một trong kí ức cùng với nỗi đau nhức nhói trong tim. Tôi nằm yên trong bao và loáng thoáng nghe thằng Pơ-lê nói với thằng Hòa: “Có thể... (certainement, possible) chứng liệu không chính xác!”.

Độ mấy phút sau thằng Hòa ra lệnh cởi bao lôi tôi ra và nói:

-Ông xếp này bảo là cho mày thêm một đêm để suy nghĩ. Không khai, ngày mai mày sẽ chết...

Chúng lại khiêng tôi vứt vào xà lim. Tôi bò lết vì cả chân tay tê dại, khó nhấc lên được. Chỗ xương sườn bị gãy, nơi cái nhọt bị đâm, vẫn đau nhức ri rỉ máu, mủ. Nhưng tôi cười thầm cái trò hù doạ xỏ lá của bọn chúng. Mấy đồng chí của tôi bị bắt ở ca-sô gần đấy lấp ló nhìn ra. Có lẽ sự chịu đựng và thái độ của tôi trước kẻ thù đã gieo được vào lòng họ những suy nghĩ về bổn phận của mình. Chị Lê Thanh, từ sau cái hôm đấm tôi mấy đấm vào bụng và nghe những lời nói bóng gió của tôi, tôi thấy chị cứ muốn lánh mặt. Mỗi buổi bọn mật thám điệu tôi lên bàn tra cung, rồi khi hết buổi chúng lại khiêng tôi xuống buồng giam với thân hình đẫm máu, mỗi lần như vậy tôi thấy chị quay mặt và lỉnh đi chỗ khác. Thế rồi một hôm, chị lén ném cho tôi một cuộn băng và nói vội: “Lỡ bước trượt rồi thì đứng lại thế nào hở anh?”. Tôi cũng trả lời vội: “Đứng lại ở đấy và đừng bước nữa thì khỏi ngã” (chị Lê Thanh hiện còn sống).

Cậu Xôi - Phong Cốc là người Phong Cốc - Hà Nam, Quảng Yên. Hắn lầm lì ít nói, người cùng quê với xếp Hòa. Trước kia hắn cũng là cơ sở của kháng chiến, sau khi bị bắt, bị mua chuộc, rồi xếp Hòa dùng hắn để gác bốt và coi tù. Hình như hắn cũng chú ý theo dõi những người bị bắt lên tra đánh. Cứ mỗi lúc y thấy tôi máu me đầy người, không lết đi được sau khi bị tra đánh, thì y đều có cái nhìn thiện cảm. Bởi vậy khi tôi đập cửa xin nước, hắn đều đem lại rất sốt sắng. Có lần hắn còn lén bỏ vào ca nước những cục đường.

Rồi một hôm, bọn mật thám lôi Điều lên tra tấn. Sau những phát đạp đánh, Hùng Điều kêu rú lên, rồi thấy chúng điệu Điều ra xe nổ máy. Mấy phút sau chúng bắt về bốt một bà già. Khi Điều bước xuống xe thì Xôi xấn lại, y túm luôn lấy Điều dùng báng súng nện vào ngực, chân đá Điều lăn lên, lộn xuống. Vừa đánh y vừa chửi tục: “Đù mẹ thằng này, mày mù à! Mày không nhìn thấy ai à! Mày định dẫn bắt hết cả dân thành phố này à...” Thì ra vậy! Trong lương tri sâu kín của những người con yêu nước, họ vẫn gặp nhau, tìm đến nhau, vẫn nhìn và làm theo nhau.

Anh Tham (rỗ) là phó thư kí công đoàn khu 6 thuộc quận, cơ sở đổ bể, anh bị giặc bắt. Mấy hôm nay bọn mật thám tập trung đánh và khai thác chức danh của tôi. Chúng đã thất bại khi đem Hùng Điều lên nhận diện. Hôm nay chúng dẫn Tham đến trước mặt tôi. Chúng đẩy Tham và giục:

-Mày nói đi. Tên nó là gì?

Tham chưa kịp mở miệng tôi đã tranh nói trước:

-Tôi ở Hà Nội có quen biết gì nó.

Thằng Hòa đạp tôi một cái và chửi:

- Tao hỏi mày à! Khép cái mồm mày lại.

Rồi quay sang Tham:

-Nó làm cái gì?

Tham ấp úng:

-Con không biết, nhưng chắc nó làm to lắm.

Lập tức cả bọn xúm lại quật Tham xuống, vừa đánh vừa chửi: “Tổ sư mày! Cái mồm mày như đít con nhà thổ. Lúc có, lúc không”. Tôi nhìn Tham, lại nhìn xuống chỗ có cái nhọt, nơi rẻ xương bị đánh gầy và vẫn rỉ máu, bỗng thấy bớt đau.

Mấy hôm sau chúng gọi tôi đến gần một chị phụ nữ quần áo tả tơi, đầu tóc rũ rượi. Xung quanh chị có thằng Lai-xanh và hôm nay, đặc biệt có cả thằng Đơ-he, chánh mật thám liên bang Đông Dương, thằng quản Xồm, tên mật thám phòng nhì khét tiếng hung bạo ở Hải Phòng. Tôi nhẩm chắc phen này sẽ bị chúng đánh chết, bởi chị phụ nữ đó chính là cô Hoa, Bí thư phụ nữ khu 7. Đã qua hai người nhận diện chúng đều thất bại. Lần này đưa Hoa ra nhận diện chắc khó có thể chối được.

Vừa nhìn thấy Hoa, ngay trước cả bọn Tây tôi rọi tia mắt nhìn thẳng vào mặt chị. Thằng Hòa lên tiếng hỏi Hoa: “Thằng này là ai?” Hoa chưa kịp mở miệng, tôi đã nói:

- Tôi không hề quen biết chị này!

- Hãy vạch mặt nó ra xem có phải con Hoa?

Chúng vạch mớ tóc rối bù trên mặt chị, tôi vẫn nhìn thẳng chị. Chị nói:

- Tôi không biết nó là ai, không hề quen nó.

Thằng Lai-xanh đá luôn hai đá vào bụng chị và hỏi dồn:

- Sao mày bảo biết nó là chủ tịch?

Hoa cuống lên:

- Không, con không biết. Tôi không biết! Các quan hỏi ông ấy!

Lai-xanh đá thốc luôn hai nhát giày nữa vào mặt chị và chửi tục:

- Cút mẹ mày xuống xà lim đi - và quay lại hỏi tôi:

- Sao nó bảo mày là chủ tịch?

- Các ông đánh nó đau quá nó khai lung tung.

- Mày hãy vào đây xem tao đánh nó.

- Các ông đánh nó, nó là phụ nữ, thì nó chết. Không chết, nó đau sẽ khai bừa. Các ông sẽ bắt hết dân Hải Phòng của các ông hay sao?

Thằng Lai-xanh ngẩn lại một phút và phẩy tay cho tôi trở về chỗ cũ. Mãi đến bây giờ có người đến hỏi chị Hoa đã 72 tuổi còn sống ở Hải Phòng: “Tại sao lúc đó chị lại chối không quen biết anh Thành?”. Chị trả lời: “Chính nét mặt đôn hậu và đôi mắt nhìn nảy lửa của anh ấy làm tôi cuống lên, bật ra câu trả lời: Tôi không biết, các quan hỏi ông ấy”.

Thằng Phiên béo là đảng viên Việt Nam quốc dân đảng. Pháp nhảy dù Bắc Cạn bắt được đem về Hải Phòng sử dụng. Y thành tên ác ôn khét tiếng nhất của bọn mật thám không quân ở bốt Cống trắng. Y đánh, tôi không khai, không van xin, bị đau đến ngất xỉu, nhưng khi tỉnh lại lời nói vẫn bình thản. Một hôm y tìm đến gặp tôi, bữa ấy y không gọi tôi là mày nữa mà nói:

-Ông Duy ạ! (tên tôi trong tù là Duy). Làm tay sai cho Tây cũng nhục như chó!

Tôi chẳng cần đắn đo trả lời ngay:

-Chúng tôi là người làm cho ông đỡ nhục, nhưng ông lại đánh chúng tôi nhiều nhất.

Nghe tôi nói vậy, y cúi gầm đầu xuống lấy mũi giầy hất hất những viên sỏi lăn đi lăn lại. Cũng từ hôm ấy, tôi thấy y không đánh tù hung hăng như trước nữa. Y nhìn tôi bằng con mắt kính phục, nhưng tránh không dám gần.

Những ngày ra Salông và đến căng Đoạn Xá, chúng chẳng khai thác được gì ở tôi, nhưng chúng cũng không tha và đề vào phích tù: “Không có cứ liệu, nhưng nhiều người khai là chủ tịch” và chuyển vào giam ở căng Đoạn Xá.

Bọn quản Xồm thấy phích tù đề “không có chứng cớ” liền tung tay chân bủa lưới quanh tôi. Có nhiều đồng chí của tôi bị bắt vào đây, song gay cấn nhất là Xuân Đào. Anh em gọi hắn là Đào “răng vàng”. Hắn vốn là quận uỷ viên quận Cửa Cấm bị giặc bắt, khai phá cơ sở và được bọn mật thám liên bang sử dụng, thứ nữa là cậu B. giao thông quận Cửa Cấm. B. cũng bị bắt, bị mua chuộc. Xuân Đào theo lệnh của quản Xồm moi tìm những cán bộ bị bắt còn giấu được tung tích. Ngay từ ngày đầu, tôi tìm gặp Xuân Đào, đúng lúc hắn đang chăm chú nhìn cậu cần vụ vắt chanh vào cốc nước giải khát. Đợi cậu thanh niên này vắt hết nước, vứt cái vỏ chanh xuống đất, tôi tiến lên một bước, vừa cất tiếng chào vừa cúi nhặt cái vỏ chanh.

Lúc này Đào đã nhận ra tôi và nói:

-Anh nhặt cái đó làm gì? Chanh đã vắt hết nước.

Tôi tranh thủ nói thẳng với Xuân Đào:

-Anh thừa hiểu nghĩa thật và nghĩa bóng của câu anh vừa nói. Tôi đến gặp anh để nói thật với anh rằng tôi không khai nhận, và không bao giờ tôi khai nhận! Anh có tố giác tôi thì tôi cũng chết và chắc chắn anh cũng không sống được. Bởi anh biết khi tôi đã không nhận thì đối với địch anh chỉ là đứa tâng công nói bừa, nó sẽ không tin nữa và cuối cùng chúng cũng không tha anh. Ở ngoài kia, anh biết đấy, bọn chúng đang thua chạy ở khắp các mặt trận.

Đào yên lặng, không trả lời, hất cốc nước chanh tung toé xuống đất mà không uống. Tôi lại tìm đến B. và cũng nói thẳng:

-Cậu khai bắt Xuân Đào đã là cái tội. Bây giờ cậu có tố giác mình thì cậu xem đấy.

Tôi chỉ vết thương nơi cái nhọt vẫn rỉ máu và khẳng định:

- Không bao giờ tôi khai nhận đâu.

Lời nói của tôi quả có tác dụng. Xuân Đào và B. không những không tố giác tôi, mà không còn hoạt động tệ hại như trước nữa. Còn B. thì hối hận. Cậu ta săn sóc, tìm cả bông băng, hàng ngày lau rửa vết thương rỉ máu của tôi và nhất là không khai báo cơ sở với địch nữa. Sau này được tha tôi đã nhận thực cho B. được phục hồi Đảng tịch.

Những ngày ở Đoạn Xá vết nhọt bị đâm trên sườn tôi vẫn sưng bầm. Làm gì có thuốc chữa trị, ngoài thứ thuốc đỏ. Nơi rẻ xương sườn bị gãy và vết đâm có nhiều hút như hút chạch, cả máu lẫn mủ ngày đêm ri rỉ chảy, lầy nhầy như máu cá. Tay ôm viết thương, tôi vẫn cố tìm đến tổ chức. Tôi muốn bằng sự kiên nghị của mình sẽ khống chế được số anh em dao động tinh thần, mặt khác giữ vững được tinh thần cho số đông đồng chí bị giặc bắt. Với tư cách Phó Bí thư chi bộ trong nhà tù, tôi có biết bao công việc phải làm, không thể nhớ hết...(Nhưng đáng quý là có những anh em đồng chí bên tôi lại nhớ được nhiều chuyện vào giai đoạn đó. Như đồng chí Văn Tân, sau này báo cáo về Trung ương, tháng 3- 1993, có đoạn viết: “Khoảng tháng 4-1952 đồng chí Đoàn Duy Thành có phân công tôi trực tiếp chỉ huy 50 anh em bộ đội đi làm ở bốt pháo thủ, mé bên kia bến Bính... đến 7 giờ hôm đó khi địch tập trung anh em chúng tôi lên ôtô về Cảng thì chúng tôi xông vào đồn cướp súng, phá khẩu cao xạ 4 nòng, rồi theo bãi sú về làng Dương Quan như đã liên lạc từ trước”.

“ Khoảng một tuần sau, đồng chí Đoàn Duy Thành cho tôi kiểm tra lại kế hoạch giải phóng 100 anh em bộ đội đi làm ở núi Voi... Và kế hoạch này ngay chiều hôm sau anh em đã thực hiện thắng lợi giải phóng cả 100 anh em, tước toàn bộ súng ống của bọn lính áp tải...”

Như thế, ban ngày mọi hoạt động lôi cuốn tôi, nhưng đêm đêm trong buồng giam nghe tiếng súng công đồn khi gần khi xa, lòng tôi xốn xang, không thể nào chợp mắt được. Tôi nhớ những đêm theo giao liên đi họp, từng đoàn đom đóm lập loè trong lùm cây, nhớ những đêm mưa phùn, đi sát qua đồn giặc, những đám ma trơi vật vờ nơi bãi tham ma, nơi giặc vùi xác đồng bào, cán bộ mình. Nhớ cả những buổi đang đi gặp phải lính tuần đường, tất cả nằm nép xuống bờ nước, lúc bò lên mới thấy đỉa bu quanh lưng, bu khắp mặt lầy nhầy...

Tôi băn khoăn nhiều đến nhiệm vụ Thành uỷ giao phó mà chưa hoàn tất, nào hoạt động với khối công nhân khu ga, khu cảng, khu lán bè... Còn bây giờ, bây giờ phải tìm mọi cách thoát khỏi nhà tù, thoát nhưng phải làm sao không đụng chạm thất thiệt đến tổ chức trong khám. Bởi vậy khi Văn Tân kiểm tra xong kế hoạch trốn cả 100 anh em bộ đội, tôi đã dặn: “Bố trí kiểm tra xong, đồng chí phải ở lại”. Bởi mình phải nghĩ tới mấy ngàn cán bộ, bộ đội ta còn bị giặc nhốt ở đây, căng tù này cũng là một điểm nóng mà người cán bộ phải có trách nhiệm.

Đi đày Côn Đảo

Lúc này giặc đại bại ở biên giới. Hàng binh đoàn với cả tướng tá của chúng đã bị ta bắt sống. Vùng đồng bằng sông Hồng, nơi mà chúng cho là an toàn nay bị uy hiếp. Vì vậy chúng tìm cách chuyển số tù binh và cán bộ của ta bị bắt vào phía Nam.

Vết thương bên cạnh sườn của tôi vẫn như cái nhọt bọc. Ngày đêm đau nhức tưởng khó có thể qua được. Xem bưu thiếp của số anh em đã ra đảo gửi về, tôi biết những đồng tiền Đông dương mà chi bộ căng tù Đoạn xá chúng tôi đưa cho anh em trước lúc xuống tàu khi tới đảo đều bị chúng thu hết bằng lối khám trần truồng.

Ngày chúng tôi bị thanh lọc và đợi tàu ra đảo, thành uỷ Hải Phòng qua chi bộ căng tù Đoạn xá gửi cho chúng tôi ba ngàn tiền Đông Dương. Tôi đã gửi mua 10 chỉ vàng, đánh thành 10 cái nhẫn để hở khuy. Tôi nghĩ rằng nếu bị lột trần khám xét thì chỉ còn hai cách: Thứ nhất là cắn bẹt ra rồi nuốt vô bụng, khi đại tiện bới ra tìm lại; hai là bẻ ra gắn vào qui đầu rồi tuốt da xuống thì bố nó cũng không tìm được. Quả nhiên khi ra đảo, bọn cai tù khám bằng lối khám đặc biệt mà anh em tù gọi là “điệu múa phượng hoàng vỗ cánh”. Chúng tôi cho chim đeo vòng vẫn giữ nguyên được 9 chỉ. Riêng đồng chí Thíu (Bình Giang) nuốt vào bụng, khi đại tiện thò tay vào thùng phân mò mãi không thấy.

Hôm ấy, 1-10-1952 một đoàn xe nhà binh bịt bùng, kín mít tiến vào sân căng. Anh em chúng tôi lần lượt bị gọi ra xếp hàng xuống tàu đi đày. Nhiều anh em trong trại nhìn tiễn chúng tôi bằng ánh mắt thương cảm. Chúng tôi hô to các khẩu hiệu: “Đả đảo thực dân Pháp - Hồ Chủ tịch muôn năm...!”. Tôi giơ cao tay, nói thật to: “Chào anh em ở lại, chúng ta sẽ gặp nhau ngày Thủ đô giải phóng”.

Xây dựng Đảng trong nhà tù và cuộc vượt ngục lớn nhất

Trong nhà tù, chi bộ đảng, hạt nhân lãnh đạo cuộc đấu tranh mặt đối mặt với quân thù, phải căn cứ vào hoàn cảnh của tù nhân, của từng trại giam để có phương sách xây dựng Đảng, tổ chức đấu tranh thích hợp nhất, vừa bảo tồn được lực lượng, vừa tránh mắc mưu khiêu khích của kẻ thù, hoặc rơi vào sự mua chuộc dụ dỗ sinh ra tư tưởng cầu an hưởng lạc, nằm yên, thậm chí làm tay sai cho địch, không dám đấu tranh chia lửa với bên ngoài. Và khi có thời cơ, phải biết tổ chức tự giải thoát hoặc phối hợp với lực lượng bên ngoài đánh địch tại ngay những nơi chúng cho là an toàn nhất, như các trại tù ở các đảo xa đất liền.

Tôi vừa chân ướt chân ráo đến căng Đoạn Xá, San D1 (Salle Dangereux No 1 - khám tù nguy hiểm số 1), thì gặp ngay được một đồng chí rất tốt. Anh quen biết tôi và qua theo dõi khi tôi bị bắt, thấy tôi không khai báo làm hại cách mạng, anh đã cho tôi biết kế hoạch đào đường hầm xuyên ra ngoài. Đồng thời anh bố trí tôi vào tốp đồng chí nằm ngủ chờ khi có lệnh thì chui đường hầm vượt ngục. Sự việc không thành (Tạp chí Lịch sử Đảng, số 6, năm 1995 đã có bài viết về sự kiện này), anh Th. Huyện đội trưởng một huyện, bị địch đánh, đã khai ra gần hết các đồng chí trong Ban chi uỷ (Chi uỷ lúc đó có 7 người) và một số đảng viên. Trong tình thế đó, đồng chí Trần Thành Thọ là chính trị viên Tiểu đoàn, người chỉ huy quân sự cao nhất ở San bộ đội, đứng ra nhận trách nhiệm là người chỉ huy cuộc đào hầm vượt ngục. Đồng chí Thọ bị địch đánh chết ngay đêm hôm ấy. Các đồng chí khác không bị tra tấn, trừ hai anh Tường (tức Thâm) và Cao Văn Đoàn. Sau một tháng giam ở ca sô (hầm tối) cho ăn cơm muối, không tìm được chứng cứ, địch phải thả hết.

Ban chỉ ủy cũ coi như bị lộ. Chúng tôi bàn nhau củng cố chi bộ. Tôi được cử làm phó bí thư phụ trách xây dựng Đảng và phòng gian bảo mật (Chi uỷ lúc này chỉ có 3 người là các anh Dụ, Kỉ và tôi). Công việc đầu tiên là rà soát lại các đảng viên đã được sinh hoạt Đảng trước đây, phân tích sự không thành công của cuộc vượt ngục, xem xét các đảng viên sau cuộc vượt ngục, tìm ra những đồng chí sau thất bại này lại hăng hái hơn trong cuộc đấu tranh với địch như đồng chí Văn Tân, Tường (tức Thâm), Châu “lé”... Bởi vì đã có đồng chí trước đây ở ngoài là uỷ viên Thường vụ huyện uỷ như đồng chí Ch. sau cuộc vượt ngục không thành, sinh ra bi quan, hằng ngày ăn cơm xong lấy manh chiếu cuộn tròn nằm ở cuối khám, không trò chuyện với bất cứ ai cho đến khi địch chuyển đi trại giam khác.

Sức khoẻ tôi lúc này rất kém, lại phải dồn sức vào củng cố phong trào tù nhân. Theo sự phân công của chi uỷ, tôi trực tiếp đọc cho đồng chí Sâm “cụt” viết bằng mực hoá học, tại một góc San D1, bản báo cáo gửi Thành uỷ Hải Phòng về công tác của chi bộ. Bọn địch không phát hiện được vì chúng tôi giả như là mấy người học tiếng Pháp và ăn chung cùng mâm với nhau gồm cả Đào Hữu Thăng. Nhận được báo cáo gửi ra qua đường dây liên lạc của đồng chí Trần Hồi và Phiên (Hoán), Thành uỷ đã báo cáo lên Thường vụ Khu uỷ. Đồng chí Nguyễn Năng Hách (em ruột đồng chí Lê Thanh Nghị) Khu uỷ viên, kiêm Bí thư Thành uỷ Hải Phòng thay mặt Khu uỷ kí quyết định công nhân chi bộ nhà tù Đoạn Xá là chi bộ chính thức. Chúng tôi chuyển quyết định có đóng dấu son cho các đồng chí chi uỷ viên xem rồi hủy ngay. Lúc này đảng bộ đã có 206 đảng viên, phân bố trong các khám, nhưng đông nhất là San D1 và San sĩ quan quân đội.

Hoạt động của chi bộ dần đi vào nền nếp. Các hình thức đấu tranh được tổ chức tốt, bao gồm tổ chức vượt ngục, lãn công khi địch bắt đi lao động, đưa kiến nghị yêu sách đòi cải thiện sinh hoạt, đòi thả những người bệnh nặng và chữa chạy cho tù nhân đau ốm. Tiêu biểu cho giai đoạn này là hai cuộc vượt ngục của 100 tù binh đi lao động ở núi Voi Kiến an (Trong cuộc vượt ngục, ta đã cướp toàn bộ súng của bọn lính coi tù và thoát ra vùng tự do), vượt ngục bằng cách rút chấn song sắt ở căng tin San D1 (Tạp chí Lịch sử đảng số 6-1995 đăng bài: “Chi bộ nhà tù Đoạn Xá Hải Phòng” có nhắc đến các sự kiện này). Các cuộc vượt ngục đã làm cho bọn cai ngục và bọn thực dân Pháp ở vùng duyên hải Bắc Bộ phải thay đổi một phần chế độ hà khắc đối với tù nhân, đồng thời chúng tiếp tục phân tán anh em bằng cách đày đi Côn Đảo, Phú Quốc những người chúng cho là lãnh đạo trong nhà tù.

Đến nhà ngục Côn đảo

Lúc này mùa gió chướng sắp đến. Việc chuẩn bị cho cuộc vượt ngục Côn Đảo đang diễn ra sôi nổi nhưng rất bí mật. Qua kiểm tra sàng lọc xem xét của Đảng, đồng chí Lê Đình Thụ và tôi được bổ sung vào Đảo uỷ. Chúng tôi bắt tay ngay công tác chuẩn bị cho cuộc đánh địch cướp đảo, nhằm đưa tất cả tù nhân về đất liền, tham gia kháng chiến. Sau khi đồng chí Văn, Bí thư Đảo uỷ phổ biến chủ trương, chúng tôi soát lại kế hoạch đánh chiếm đảo, phương tiện thuyền và vũ khí. Chúng tôi khẳng định chỉ có đánh chiếm được toàn đảo, sử dụng đại bộ phận tàu thuyền sẵn có của địch để về đất liền mới bảo đảm thắng lợi. Còn thuyền do ta chuẩn bị, khung thuyền bằng gỗ và song, với vải sơn bọc ngoài, khó có thể vượt qua được sóng to gió lớn.

Không khí chuẩn bị cuộc vượt đảo có một không hai này sôi sục trong tâm tư tình cảm của mỗi người tù, nhất là Banh III tù binh. Nhưng bề ngoài chúng tôi rất thầm lặng, nói chuyện với nhau qua ánh mắt, nụ cười thầm kín. Bởi vậy vẫn giữ được tuyệt đối bí mật cho đến giờ nổ súng. Tôi được phân công phụ trách chuẩn bị danh sách và tàu thuyền hiện có trên đảo, có thể dùng làm phương tiện về đất liền được, kế hoạch đối phó với địch sau trận đánh chiếm đảo, những biện pháp đối phó với những tình huống xảy ra như thắng lợi hoàn toàn, hoặc đi được một bộ phận, hoặc cuộc chiến dấu thất bại.

Tôi đã cùng với số anh em giúp việc thu thập tình hình đề ra các biện pháp xử lí. Sau khi chuẩn bị xong, đã đưa ra thường vụ Đảng uỷ góp ý kiến.

Trong việc chuẩn bị này, khó nhất là phương tiện chở anh em về đất liền, chỉ bảo đảm được khoảng 550 người, mà ở đảo lúc đó có 2100 người. Riêng banh III tù binh đã có 500 người. Phải tính đến chuyện dùng các loại thuyền đánh cá nhỏ, không có máy nổ, tự tạo buồm, mái chèo, mà đi từng tốp nhỏ. Nếu đúng dịp đó có tàu hàng đi qua thì cướp luôn tàu để đi. Nếu phải kéo dài thì giờ thì việc quan trọng nhất là chiếm được máy phát tín của địch ở “Hòn bảy cạnh”, khống chế địch ở đây, phát tín hiệu bình thường về đất liền 2 ngày một lần như địch làm thường lệ và chuẩn bị cho anh em về chuyến sau cùng bằng một ca nô tốt nhất của đảo, có khả năng chạy một đêm đến cửa Mỹ Thanh, khu tự do của ta thuộc tỉnh Bạc Liêu.

Từ giữa tháng 11-1952 thỉnh thoảng đã có gió “chướng” thổi qua đảo. Anh em rạo rực chờ đợi. Tôi lúc nào người cũng nóng ran, như bị sốt 40 độ. Gió “chướng” đến rất ngắn, nửa ngày hoặc một ngày đã hết. Tôi đề nghị với anh Văn bố trí cho tôi và anh Thụ đi làm với kíp làm đường ở đầu mom để quan sát tình hình cụ thể và nếu có điều kiện bàn thêm với kíp làm rừng ở bến Đầm. Số anh em làm rừng được làm lều ở cố định, còn kíp làm đường thì sáng đi tối về bằng xe vận tải. Anh Thụ không ốm nên khi xếp hàng được đi làm ngay. Còn tôi ốm yếu, sốt rét da vàng ậng, khi điểm danh tên đội Tây trắng Roberl đẩy tôi về. Y bảo “malade” (ốm) ở lại. Phải tìm cách lừa hắn.

Một hôm tôi xếp hàng, y đang điểm danh ngoảnh đi, thừa cơ tôi nhanh chân lén lên chỗ y đã điểm. Tôi thoát ra đi làm một ngày với kíp làm đường. Tôi có điều kiện quan sát toàn cảnh khu vực sẽ xảy ra chiến đấu. Phải bắt sống toàn bộ hơn một trung đội Âu-Phi mạnh nhất của đảo (toàn đảo chúng có một đại đội, 2 trung đội ốm yếu bố trí ở thị trấn, hơn một trung đội mạnh do viên chánh quản Bordesoul (Bốt-đờ-xun) chỉ huy. Tên này là lính của Trung đoàn Pháp đi đánh nhau với Bắc Triều Tiên về, mang tư tưởng thất bại ở chiến trường Triều tiên và có thái độ cảm tình với anh em tù binh.

Chúng tôi đã bàn thống nhất với nhau kế hoạch đánh nhanh, cướp toàn bộ vũ khí, hoá trang là lính địch chở tù về, tấn công vào trụ sở chỉ huy của chúa đảo Jacty. Khi súng nổ, các nơi đã có kế hoạch hợp đồng tác chiến, nổi lên chiếm toàn đảo. Riêng banh III, tù binh là lực lượng chủ công, do đồng chí Tụy, đồng chí Nghĩa phụ trách, có nhiệm vụ bắt sống tiểu đội lính da đen, tước vũ khí và chi viện cho các đơn vị chung quanh, cùng với đơn vị ở kíp làm rừng, làm đường kéo về, giải quyết những điểm chưa chiếm được. (Đồng chí Tụy hiện nay về hưu ở Hưng Yên).

Hai mũi quyết định cho trận đánh thành công hay thất bại đó là:

1/ Kíp làm rừng ở bến Đầm, đơn vị ở cố định trên rừng có nhiệm vụ đào hầm và làm 5 thuyền đề phòng bất trắc. Thuyền bằng gỗ, song, bọc vải, sơn trám, mát tít, hắc ín... Kíp làm rừng có 28 lính Âu - Phi canh gác, vũ khí đủ, khoẻ mạnh, do chánh quản Bốt-đờ- sun chỉ huy. Phía ta do đồng chí Phan Ru, Thường vụ Đảo uỷ làm chỉ huy trưởng, đồng chí Hoàng Tiễn làm phó chỉ huy trưởng. Đồng chí Tô Lương phụ trách dạy võ để bắt sống toàn bộ 28 tên lính ở đây, tước súng để đánh về thị trấn (Ba đồng chí Phan Ru, Hoàng Tiến và Tô Lương còn sống ở Hưng yên và Hà Nội).

2/ Kíp làm đường sáng đi tối về do đồng chí Phạm Quý Tuyển, Đảo uỷ viên làm chỉ huy trưởng, đồng chí Nguyễn Văn Đồng làm chỉ huy phó. Khi có lệnh phát hoả ở kíp làm rừng do đồng chí Phan Ru chỉ huy thì kíp làm đường bắt sống 7 tên lính da đen đi coi tù, chiếm ô tô, cùng với kíp làm rừng đánh về thị trấn (đồng chí Tuyển nay ở thành phố Hồ Chí Minh, đồng chí Đồng ở Thái nguyên).

Trong kíp làm đường có đồng chí Hiến (Văn Hiến) tỉnh uỷ viên Hải Dương làm Bí thư Đảo uỷ, đồng chí Lê Mai phó bí thư huyện uỷ Kiến Thuỵ, Kiến An là thường vụ đảo uỷ, đồng chí Tụng- Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính huyện Tứ Kì là Đảo uỷ viên, đồng chí Hòai Đĩnh- Huyện đội Trưởng huyện đội Thanh Hà, Đảo uỷ viên, là bộ chỉ huy chung cho hai kíp làm đường và làm rừng, chỉ đạo đánh về thị trấn.

Sự phân công khá tỉ mỉ, chi tiết. Mọi việc chuẩn bị chu đáo, đặc biệt là chuẩn bị tinh thần chiến đấu cho từng đảng viên, từng quần chúng trung kiên trên toàn Đảo. Những phương án tác chiến đến những tình huống bất trắc có thể xảy ra đều được Đảo uỷ bàn rất kĩ. Nhất là công tác địch vận và chính sách tù binh được suy đi tính lại rất thận trọng, sao cho không để xảy ra những sai sót đáng tiếc. Vì nếu ta căm phẫn giết một tên tù binh, chúng sẽ có cớ trả thù, vừa sai với đường lối nhân đạo của ta. Nhưng với tên chúa đảo Jacty đại gian ác thì sao? Và có bắt viên quan tư thầy thuốc Rozière, người có cảm tình với ta, đi theo để chữa cho anh em mình trên đoạn đường sóng gió không? Rốt cục Đảo uỷ quyết định không đưa ông thầy thuốc đi theo vì ông ta đã già lại thêm bà vợ cũng già. Còn với Jacty cũng tha cho y, chỉ cảnh cáo sâu sắc, để y không được trả thù những người bị bắt lại, hoặc chậm chân không kịp vượt đảo v.v...

Một nhận định tối quan trọng cuối cùng là: Phải đánh chiếm được toàn đảo thì cuộc vượt ngục mới thành công. Vì số thuyền ta chuẩn bị bằng các thứ nguyên liệu tạp nham, không đủ tiêu chuẩn để đi nhiều giờ trên biển khơi, sóng dữ. Nếu bất đắc dĩ phải dùng thì chỉ đi ít người trong điều kiện có gió chướng.

Tâm trạng chúng tôi khi ấy thật khó tả. Lúc là sự nôn nóng chờ đợi của những đứa con xa nhà, sống giữa lao tù đày ải của bọn giặc cướp nước, lúc lại xiết bao vui sướng nghĩ đến việc tự mình giải phòng cho mình để trở về với Tổ quốc, với gia đình xa cách nhớ thương... Có thể nói những ước mơ khao khát của hơn hai nghìn con tim như hâm nóng hòn đảo giữa biển khơi trùng dương sóng vỗ, nơi chỉ có tường đá với sàn xi măng lạnh ngắt, cơm hẩm với cá khô thối, coócvê và roi vọt.

Ngày 12-12-1952 đã đến và nổ ra cuộc vượt đảo có một không hai, dưới sự lãnh đạo của Đảo uỷ Côn Đảo. Do sơ suất của kíp làm đường để sổng một tên lính da đen, lại gặp thời tiết không thuận, thiếu gió chướng, nên các đồng chí chỉ huy ở kíp làm rừng và làm đường phải thay đổi phương án, không đánh về cướp toàn đảo mà tổ chức vượt cục bộ bằng 5 thuyền. Ta đã bắt sống hơn một trung đội lính Âu - Phi mạnh nhất đảo (toàn đảo có một đại đội) tước toàn bộ vũ khí. Khi vượt đảo không thành, anh em đã vứt toàn bộ số vũ khí thu được xuống biển. Hai thuyền bị bắt lại, ba thuyền bị đắm, 81 đồng chí hy sinh.

Sau sự kiện này, địch đã buộc phải tăng cường viện binh giữ đảo. Một trung đoàn thủy quân lục chiến và nhiều tàu chiến, canh tuần suốt ngày đêm chung quanh đảo. Trong khi đó chiến trường Đông Dương rất thiếu quân, đặc biệt là chiến trường Bắc Bộ và Thượng Lào, địch thiếu quân nghiêm trọng. Như vậy là chiến trường Côn Đảo đã chia lửa với chiến trường toàn quốc, góp phần vào chiến thắng chung. Mặt khác, sau một thời gian khủng bố ác liệt những người tù còn lại trên đảo, địch buộc phải thực hiện một phần công ước Genève về tù binh.

Cuộc vượt Đảo không thành công, 117 anh em bị bắt lại, 81 người hy sinh. Những người bị bắt lại, chúng giam giữ riêng và đánh đập rất dã man. Số anh em không ở kíp làm rừng và làm đường còn ở lại trong trại, do giữ được bí mật nên địch không biết rõ có tham gia cuộc vượt đảo hay không, chúng thực hiện chính sách khủng bố đồng loạt, khoá tất cả các khám, bỏ đói 3 ngày, sau đó chỉ cho ăn cơm với muối, không cho đi lấy nước sạch về nấu cơm, hàng ngày xua lính lê dương vào khám xét đánh đập

Đảo uỷ lúc này hầu hết đã hy sinh, trong đó có đồng chí Văn Hiến (tức Văn) Bí thư Đảo uỷ.

Banh III tù binh còn tôi và đồng chí Lê Đình Thụ. Bên Banh I và Banh II còn đồng chí Nguyễn Đình Thâu.

Tôi và anh Thụ cùng đồng chí Nghĩa, Bí thư liên chi đảng bộ Banh III, đặt văn phòng Đảo uỷ và bộ máy chỉ huy toàn đảo tại ngay Banh III. Địch khủng bố gắt gao hơn. Số anh em bị chết nhiều đã làm nảy sinh những biểu hiện hoang mang dao động ở một bộ phận đảng viên và quần chúng. Chúng tôi đã trao đổi, phân tích những nguyên nhân không thành công của cuộc vượt ngục, nhận xét âm mưu của địch và đề ra kế hoạch đối phó của ta. Xác định rõ chủ trương đấu tranh cướp đảo, giải phóng toàn thể tù nhân là đúng đắn, chỉ đạo bộ phận y tế và cấp dưỡng liên lạc chặt chẽ với anh em bị bắt lại, giữ vững tinh thần anh em; cứu chữa những đồng chí bị thương, bị bệnh tật do phải sống trong rừng hàng tuần... Khi địch tra hỏi về kế hoạch vượt đảo thì phải nhân dịp này vạch trần chế độ lao tù hà khắc của địch, buộc những người tù phải tìm cách tự giải thoát, lên án chúng không thực hiện Công ước Genève về tù binh. Còn về tham gia cuộc vượt ngục này, chỉ khai có 2 kíp tù binh đi làm rừng và làm đường mà thôi, những người chỉ huy đều đã hy sinh rồi.

Sau hơn một tháng lấy khẩu cung 117 người bị bắt lại, địch không khai thác được gì, phải chuyển số anh em này về Sài Gòn, để chuẩn bị đưa ra tòa án binh của chúng xét xử.

Chúng tôi đã báo cáo về Đặc Khu uỷ Sài Gòn - Chợ Lớn, nhờ luật sự Nguyễn Hữu Thọ cãi giúp. Luật sự nhận lời và đã nhiều lần vào khám Chí Hòa thăm anh em, lấy chứng cứ cãi trước tòa. Cuối cùng chúng không xử được và khi có Hiệp định dình chiến ở Genève, tất cả anh em được trao trả theo Hiệp định đã kí.

Quá trình đấu tranh gian khổ, tôi bị tra tấn ác liệt, bị đánh gẫy một xương sườn số 9 bên trái. Vết thương làm cho lá phổi bên trái chảy nước vàng suốt ngày đêm, hôi thối không thể tưởng tượng được. Lại thêm sốt rét liên miên. Tôi ngỡ như cái chết đã đến gần. Địch bỏ tôi vào nhà xác trong tình trạng mê man không biết gì, chỉ còn thở thoi thóp. Chúng chuẩn bị đem chôn thì nhóm y tế do liên đoàn tù nhân Côn Đảo cử ra như các anh Trần Huy Bích, Phòng... phát hiện là tôi chưa chết. Anh em đấu tranh đòi đưa tôi về Banh III ở với anh em và đùm bọc cứu chữa với tình thân thương xót. Mọi người đã dành cho tôi những thức ăn quý nhất lúc đó ở đảo như sữa, đường để bồi dưỡng.

Tôi càng cảm động trước những hồi ức của các đồng chí sau này về thời kì đó:

- Trích lời phát biểu của đồng chí Vũ Quang Đạo - Đại tá, nguyên Trưởng ban Thi đua toàn quân ở cuộc họp ngày 26-2-1993 do Ban Bí thư Trung ương Đảng triệu tập. “Tôi biết rõ đồng chí Thành hồi ấy cách đây 40 năm, tôi còn trẻ và đồng chí Thành cũng rất trẻ. Đã bị tù đày ở Côn Đảo thì người nào cũng gầy còm, nhưng thân hình đồng chí Thành thì rất thương tâm mặc bộ quần áo tù rộng thùng thình, hai tay và hai chân như hai que củi khô, gầy guộc, phổi thì chảy nước, nhưng ánh mắt thì yêu đời. Đồng chí Thành đã tham gia hoạch định kế hoạch táo bạo vũ trang cướp đảo giải phóng tù nhân cùng với anh Văn (Văn Hiến) và anh Thụ (Vũ Hồng)”.

- Trích hồi kí của Bác sĩ Trần Huy Bích, Phó Giám đốc Sở y tế Hải Phòng. “Sau khi cho anh em khám bệnh, lĩnh thuộc, tôi đến thăm anh Duy. Anh là Bí thư Quận uỷ, bị bắt đày ra Côn Đảo, bị tra tấn rất dã man. Đòn thù làm nát lá phổi bên trái. Anh bị viêm màng phổi mủ, một lỗ rò ở ngực, không kín miệng, nước vàng lẫn máu, mủ cứ rỉ ra. Tôi ngồi bên giường hỏi anh tình hình chạy chữa và kể cho anh nghe cuộc đấu tranh xây dựng chính quyền của chúng ta trong nhà lao. Anh mỉm cười, mắt rung rinh, lấp lánh. Nhưng giọng của anh sao mà mong manh thế. Tôi vội hỏi:

- Sức khoẻ của anh có khá hơn không?

- Kém đi, không ăn được...

Cố sức trả lời tôi cơn ho ựa lên ngực, anh nghiêng người khạc đờm, đồng thời nước vàng từ lỗ rò bắn vọt ra.

Ngày mai tôi sẽ chất vấn viên quan ba thầy thuốc Leproux về cách điều trị bệnh của anh. Hôm sau trở lại, tôi sửng sốt vô cùng thấy chỗ nằm của anh bỏ trống, chiếu cuộn sạch trơn. Tôi hốt hoảng hỏi người nằm cạnh.

- Chúng đưa đồng chí Duy đi đâu?

- Nhà xác

- Trời!

Hai bàn tay tôi rủ xuồng. Cuốn sổ trên tay rơi giữa sàn nhà. Thế là chúng cố tình thủ tiêu đồng chí Duy!

Tuy mới gặp một lần song những câu chuyện về anh các đồng chí trong lao đã kể, để lại trong tôi những ấn tượng không thể phai mờ. Đảng bộ đã giao cho tôi trách nhiệm phải tìm cách đưa anh về nhà lao để săn sóc. Vậy mà! Tôi chạy vào khu nhà xác. Tôi mở tấm vải che mặt anh khẽ gọi:

-Anh Duy! Anh Duy!

Tôi nhấc tấm ga buông xuống thành giường.

Anh mở mắt nhìn tôi rồi lại nhắm.

Có phải anh còn sống hay tôi đang tưởng tượng? Tôi ghé sát tai trên lồng ngực anh. Tiếng trái tim thoi thóp. Tôi reo thầm. “Anh còn sống, phải làm cho ra nhẽ”. Tôi chạy về nhà thương tìm viên thầy thuốc.

- Ông Leproux!

Leproux hất hàm nhìn tôi, môi dẩu như thách thức.

- Ông Le Proux!

- Cái gì?

- Ông dám kí lệnh đưa một người còn sống xuống nhà xác! Ông không sợ tòa án nước Pháp chân chính buộc ông vào tội giết người vô lương tâm như thế à?

- Cái gì?

- Ông làm việc theo lệnh ai?

- Lương tâm người thầy thuốc hay chỉ thị của bọn chúa đảo? Chúng mượn tay ông để giết người vô tội.

- Vô lí! Duy đã chết từ 16 giờ chiều hôm qua.

- Bây giờ tỉnh lại rồi.

Buộc lòng Le Proux phải theo tôi xuông nhà xác. Lúc này anh Duy dã tỉnh hơn. Vừa lúc Le Proux đến Duy phều phào:

-Nước, nước!

Le Proux đứng lặng, cúi đầu xuống người bệnh. Có lẽ hắn ta đang suy nghĩ. Cần phải gõ vào lương tâm và danh dự người thày thuốc. Tôi thuyết phục hắn. Một lúc sau, hắn nói với tôi, giọng trầm trầm.

-Anh đưa ông ta về nhà lao.

Bọn chúa ngục không thủ tiêu nổi đồng chí Duy bằng cách dê hèn đó!

Chúng đưa anh về chuồng cọp lao, cách ly hẳn anh, anh Thu và chúng tôi. Tôi đòi sang săn sóc anh, vừa làm liên lạc nối hai anh với tập thể. (anh Năm Thi và anh Duy). Bọn cai ngục kiểm soát tôi rất nghiêm ngặt. Mỗi lẩn qua gặp anh Duy, nó bắt tôi cởi truồng, hai tay nâng khay men ngang mặt, trên đó chỉ được để ít bông, băng và một lọ thuốc đỏ.

Những hôm trời lạnh, anh Duy ôm ngực “ừ hự, ừ hự” mấy cái, máu mủ lại rỉ ra. Tôi lau vết thương cho anh, lòng buốt như gai nhọn đâm nhót thấu tim. Qua cơn đau anh lại nói chuyện vui và lấy hòn gạch non viết trên sàn xi măng. Anh học văn hoá, học ngoại ngữ... Ở anh, một con người lạc quan hồn nhiên, tưởng chừng như thần chết có đến cửa cũng phải vác lưỡi hái và túi vô đáy bỏ đi nơi khác.

Những ngày đầu, công việc được nhắn qua trí nhớ của tôi, nhưng về sau, tôi đã tìm được cách chuyển công văn qua lại giữa đảng uỷ với hai anh. Tôi còn nhớ hồi còn bé, lên cơn sốt, bà nội tôi mua một thứ bột gì cho tôi uống, mua ở Chợ Bằng mà sao đắng thế! Bà tôi phải lấy giấy túm tròn lại cho tôi nuố. Một mảnh giấy nuốt vào người có gì là độc hại! Tôi liền nghĩ cách cuốn tròn công văn của đảng qua lớp giấy bóng kính để nước bọt không thấm nước. Nếu bọn cai ngục bắt tôi há mồm, tôi sẽ nuốt ngay vào bụng. Với cách đó tôi đã chuyển công văn của đảng đến các anh và đem lại ý kiên nhận định của hai anh gửi về đảo uỷ được đều đặn.

Đảo uỷ lại đấu tranh đòi thả hai anh về với tập thể. Bọn cai ngục không có cách gì giữ các anh ở chuồng cọp lâu như thế, đành phải nhượng bộ.

Đưa được anh Duy về rồi, đảo uỷ liền giao cho tôi nhiệm vụ phải cứu sống anh, để làm bằng chứng về tội ác của bọn chúa đảo, vừa phần để uy hiếp tinh thần tên quan ba thầy thuốc rồi sau này chúng ta buộc Leproux phải chữa chạy cho anh em tù đúng chế độ của nhà thương, mặc dù cái chế độ ấy cũng rất tồi tệ. Nhưng lấy đâu ra chất bổ đê bồi dưỡng cho anh Duy? Giữa nơi bốn bức tường đá ngăn cách. Tôi bèn nghĩ đến một nguồn thực phẩm ở đây, nhưng mới nghĩ đến tôi đã rùng mình. Đó là thịt cóc ở Côn Đảo. Con cóc bé nhất cũng phải bằng cái bát ăn cơm. Trên lưng xù xì của nó, lấp lánh những hạt xanh biếc, trông rất huyền bí. Tôi rất sợ cóc. Nhưng mà các cụ vẫn nói thịt cóc bổ lắm! Thế là tôi dẫm chân lên lưng con cóc, đưa dao xẻo hai cái đùi rồi nhắm mắt đá hất nó đi. Tôi lấy hai cái đùi đó nấu cho anh Duy bát cháo.

Tôi không cho anh biết cháo nấu với thịt gì, cứ lặng lẽ đưa cho anh.

-Cố ăn lấy sức.

Anh Duy đưa bát cháo lên miệng, tợp tợp vài miệng, gật gù.

-Ừ ngon.

Ngồi chờ anh ăn hết bát cháo, mồ hôi lấm tấm trên trán anh, mồ hôi lấm tấm trên cả trán tôi. Chắc có ai nhìn tôi lúc này, sẽ thấy trên khuôn mặt hiện lên vẻ hân hoan như cậu học trò được nhận phần thưởng.

- Ngày mai tôi lại nấu cho anh ăn nhé.

- Ừ, ngon lắm!

Những ngày nắng ấm, tôi đưa anh ra ngồi ngoài sân. Anh nheo mắt nhìn bầu trời ôm vai tôi.

-Đến ngày độc lập, Bích về quê mình chơi. Quê mình có dòng sông Lai Vu. Chúng mình sẽ đi thuyền lên đền Kiếp Bạc viếng Trần Hưng Đạo, sang Côn Sơn thăm nơi ẩn dật của cụ Nguyễn Trãi ngày xưa...

Nghe anh nói say sưa bao nhiêu, lòng tôi càng buồn bấy nhiêu! Vết rò không lành, mỗi cơn ho, nước vàng vẫn vọt ra. Liệu anh còn chông chọi với bệnh tật được bao lâu nữa? Ý nghĩ ấy cử dày vò tôi, thôi thúc động viên tôi phải chăm sóc sức khoẻ, sao cho anh sống trở về dòng sông Lai Vu, đưa anh về thăm đền Kiếp Bạc thờ Trần Hưng Đạo, thăm Côn Sơn của Nguyễn Trãi...”.

***

Bệnh tôi không khỏi. Anh em đấu tranh buộc địch đưa tôi về nhà thương Chợ Quán- Sài Gòn để chữa. Hơn nửa tháng ở đó, tôi đã liên lạc được với cơ sở cách mạng ở nội thành do anh Lê Đình Thụ, Thành uỷ viên Sài Gòn- Gia Định cùng tù với tôi giới thiệu. Tôi chuẩn bị vượt ngục thì bị bắt lại, địch tống tôi đến Căng Phú Lâm (Sài Gòn). Mặc dù sức yếu, bị địch theo dõi, tôi vẫn liên lạc được với anh em tích cực ở đây.

Căng Phú Lâm có gần 300 tù nhân, nhưng không có chi bộ, đấu tranh lẻ tẻ, không có lãnh đạo, nội bộ anh em không đoàn kết, cãi lộn nhau, tranh nhau nơi nằm ngủ, khi ăn uống... để kẻ địch khinh thường. Mặt khác, trong căng cũng có một số tên phản động, tay sai của địch, do bị địch nghi ngờ cho vào tù ở lẫn với chúng tôi. Bọn này muốn “đới tội lập công” tìm cách báo cáo với địch về sự hoạt động của ta. Qua tìm hiểu, gặp một số đồng chí cũng ở Côn Đảo về đây như Tặng, Tiến... tôi được biết anh Khánh là chính trị viên đại đội, đảng viên người miền Bắc nên chúng tôi trao đối về kế hoạch để xây dựng chi bộ.

Căng Phú Lâm không có đại diện do tù nhân cử ra, địch chỉ định đại diện là ông Từ Việt Anh. Theo ông kể, ông là thành viên trong phái đoàn kinh tế Nam Bộ bị địch bắt, ông thường xưng với anh em tù bằng “ba”, anh 56 em cũng thường gọi ông bằng “ba”. Tôi nói chuyện với ông vài lần, thấy ông không có chính kiến chính trị, thích được tâng bốc, lại được tên sếp căng cho bán foyer (bán thức ăn vặt cho tù nhân) ông nói chuyện với tây bằng tiếng Pháp, thái độ bình thường, không khúm núm. Tôi cũng có đôi chút cảm tình với ông.

Tôi trao đổi với anh Khánh về việc xây dựng chi bộ Đảng. Không rõ anh Khánh đã bàn với những ai, nhưng ít ngày sau đồng chí Tặng kể với tôi, ông Từ Việt Anh tỏ ý không tán thành việc xây dựng chi bộ Đảng ở đây. Tôi biết cách làm của anh Khánh bị lộ vì quá tin vào ông Từ Việt Anh. Tôi phải lờ đi không bàn thêm gì với anh Khánh nữa. Khi tôi gặp một số anh em ở các tỉnh Nam Bộ bị bắt vào, qua tìm hiểu thái độ, tôi nói về tình hình kháng chiến ở miền Bắc, về Bác Hồ làm cho anh em nhận thức đúng về sự lãnh đạo của Đảng, của Bác Hồ trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, để anh em tăng cường tình đoàn kết gắn bó, củng cố lực lượng tù nhân, đấu tranh kiên quyết với địch, cải thiện sinh hoạt. (đồng chí Tặng là Phó Ban tổ chức chính quyền tỉnh Hải Hưng, nay đã về hưu ở Hưng Yên).

Rất vui là sau ngày giải phóng miền Bắc, ông Từ Việt Anh tập kết ra Bắc, về Bộ Văn hoá và được cử về Sở Văn hoá Hải Phòng làm cán bộ cải tạo. Ông Từ Việt Anh đến thăm tôi tại cơ quan, kể lại câu chuyện cũ cùng tù ở căng Phú Lâm- Sài Gòn. Gặp lại nhau rất mừng. Sau đó ông còn đến thăm tôi vài lần nữa. Có lần ông bày tỏ nguyện vọng muốn gia nhập Đảng. Tôi động viên ông học tập, công tác rèn luyện để trở thành đảng viên tốt. Có lần ông ngập ngừng muốn đề nghị tôi gì đó. Tôi đoán là ông muốn xin giấy chứng thực của tôi khi cùng tù ở Phú Lâm, nhưng ngại ngùng chuyện cũ nên không nói ra... Về sau, ông lại về Bộ Văn hoá và nghỉ hưu ở Thành phố Hồ Chí Minh. Năm nay nếu còn, có lẽ ông đã tám, chín mươi tuổi. Lâu nay tôi không được tin về ông.

Khoảng tháng 3-1953, mặc dù bệnh tôi không khỏi, nước vàng trong phổi hàng ngày vẫn rỉ ra, mỗi ngày phải thay băng 2 lần, điều kiện trong tù thiếu thốn bông băng, các bạn tù vẫn tận tình chăm sóc tôi, trong đó có đồng chí Võ Tá Lâm (cháu nội cụ Võ Tánh), đại đội trưởng pháo binh Trung đoàn 100 Bình Trị Thiên, một đảng viên xuất thân gia đình quý tộc ở Huế. Đồng chí Lâm luôn luôn thể hiện là một chiến sĩ cộng sản gương mẫu, tận tuỵ với công việc của Đảng, khiêm tốn... Thật tình cờ, khi tôi được chuyển về Sài Gòn chữa bệnh thì đồng chí Võ Tá Lâm cùng một số sĩ quan quân đội ta bị bắt được chuyển từ Côn Đảo về căng Hanh Thông Tây. Đến khi tôi bị trả lại Côn Đảo, địch lại chuyển một số sĩ quan từ Hanh Thông Tây ra Côn Đảo. Lúc lên tàu tôi lại gặp đồng chí Võ Tá Lâm.

Đến Côn Đảo lần thứ hai, bệnh tôi trầm trọng thêm. Tôi báo cáo với Đảo uỷ về chuyến đi chữa bệnh và công việc làm của tôi ở nhà thương Chợ Quán và căng Phú Lâm. Các đồng chí động viên tôi dù hoàn cảnh nào cũng phải cố gắng để sớm trở về đất liền, tiếp tục tham gia cuộc chiến đấu. Đảo uỷ giao cho bộ phận y tế, lập danh sách cho tôi đi khám bệnh và tố cáo bọn thầy thuốc Pháp ở Sài Gòn thiếu trách nhiệm, bệnh không khỏi, không chữa tiếp, cũng không đề xuất thả về, trong khi phía ta đã trao trả hàng trăm thương binh Pháp và nguỵ ở chiến dịch biên giới Bắc Bộ.

Khi tôi đến khám bệnh lại, tên quan ba thầy thuốc Le Proux hỏi tôi: “Tại sao Sài Gòn chữa không khỏi mà không thả”. Tôi trả lời ngay: “Các ông ở nhà tù Côn Đảo không đề nghị thả tôi, nên họ không thả”. Mấy đồng chí y tế của ta đứng đó nói luôn về hành động nhân đạo của ta đối với tù binh, bệnh binh Pháp, thực hiện công ước Genève về tù binh. Tên Le Proux bí quá, đỏ mặt không nói gì. Suy nghĩ một lúc y ghi vào sổ khám bệnh: Repos définitifjuspu’à libération (nghỉ lao động đến ngày được tự do). Sau đó, anh em tù tiếp tục đấu tranh đòi địch thả một số tù nhân bị ốm nặng, trong đó có tôi và ông Bùi Văn Phái (nay đã hơn 100 tuổi còn sống tại Hải Phòng, cùng về với tôi một chuyến).

Lúc này, địch lo lắng củng cố phòng vệ Côn Đảo kỹ hơn, đồng thời chuyển một số sĩ quan của ta mà địch bắt được như các đồng chí Năm Thi, Hồng Vũ... ra Côn Đảo để làm “giảm áp lực” cho trại Hanh Thông Tây. Chúng rất sợ nếu chiến tranh đến gần Sài Gòn sẽ có cuộc phá nhà tù do các sĩ quan này chỉ huy.

Như vậy lực lượng lãnh đạo ở Côn Đảo được tăng cường.

Đảo uỷ lâm thời sau cuộc vượt đảo 12-12- 1952 cùng số cán bộ lãnh đạo quân sự mới ra, xây dựng phương án tổ chức đại hội Đảng để bầu Đảo uỷ chính thức. Tôi tuy bị ốm nặng, vẫn tham gia công tác chuẩn bị cho đại hội Đảng. Đến tháng 8-1953, anh em ta làm ở bàn giấy của tên quan Tư Pháp chúa đảo, báo cho Đảo uỷ biết là tôi đã có giấy được thả, do tên Tư lệnh Pháp ở Nam Bộ kí. Các đồng chí Đảo uỷ bàn với tôi tranh thủ nắm tình hình nhà tù để về báo cáo với Trung ương cục miền Nam và Trung ương Đảng. Hàng ngày, ngoài công việc tham gia vào các kế hoạch chuẩn bị đại hội, tôi cùng với các đồng chí Năm Thi, Hồng Vũ, Lê Đình Thụ, Nguyễn Văn Nghĩa trao đổi về nội dung báo cáo của tôi với đất liền.

Tuy tôi có giấy được thả, nhưng bọn thống trị ở Côn Đảo không chịu thực hiện, mặc dù đã có nhiều chuyến tàu ra đảo quay trở lại Sài Gòn. Anh em lại phải đấu tranh quyết liệt với tên chúa đảo. Nhân chuyến Hội hồng Thập tự Quốc tế đến kiểm tra, đồng chí đại diện tù nhân tố cáo trực tiếp với viên quan Năm (người Thuỵ Sĩ, cụt một tay) và tên quan Tư thanh tra tù binh Đông Dương của Pháp. Bí quá họ phải đưa tôi và ông Bùi Văn Phái đi chuyến tàu với họ về Sài Gòn.

Họ đưa chúng tôi về gửi tại căng Phú Lâm, nói đợi có tàu ra Bắc sẽ đưa trả về quê quán.

Tôi biết đây là âm mưu của địch trì hoãn việc thả chúng tôi. Mặt khác, tôi còn có nhiệm vụ Đảo uỷ giao phó là tìm cách về Sài Gòn báo cáo với Đặc khu uỷ Sài Gòn- Gia Định, để các đồng chí báo cáo về Trung ương Cục miền Nam. Tôi liền biên thư nhắn tin bà Năm (tức bà Nguyễn Thị Phương Lan, chị ruột bà Phương Hoa là vợ ông Tấn) vào nhận với tên sếp căng tôi là cháu, xin về ở với gia đình. Tên sệp càng đồng ý.

Tôi về số 7 phố Lefebvre (Nguyễn Công Trứ hiện nay) rồi sang xóm Chiếu ở với bà Năm. Bắt liên lạc được với đồng chí Đặc khu uỷ, tôi đến báo cáo với các đồng chí ba buổi chiều liền, ở ba nơi khác nhau, nội dung như bản báo cáo của tôi gửi về Thành uỷ Hải Phòng, Khu uỷ Tả Ngạn và Trung ương Đảng, nay còn được lưu trữ tại Cục lưu trữ 58 Trung ương. (báo cáo này đã được Ban Bí thư Trung ương Đảng và Cục trưởng cục Lưu trữ cho phép tôi photocopy và in thành nhiều bản gửi một số đồng chí đọc và nghiên cứu về tình hình đấu tranh, xây dựng Đảng trong nhà tù. Báo cáo này tôi viết xong ngày 9-12-1953 tại nhà chú Siêu, thôn Đồn Xá, huyện Quỳnh Côi, Thái Bình).

Tháng 11-1953 tôi về huyện Quỳnh Côi, Thái Bình báo cáo với Thành uỷ Hải Phòng. Viết xong báo cáo chung của Đảo uỷ giao cho với Trung ương Đảng và báo cáo riêng cá nhân kiểm điểm khi bị bắt bị tù, tôi được phép của Thành uỷ Hải Phòng về ăn tết với gia đình ở khu du kích Thanh Hà, Hải Dương. Đầu năm 1954, tôi đi chỉnh quân do Khu uỷ Tả Ngạn tổ chức. Kết thúc chỉnh huấn, tôi được cử vào Hải Phòng để tuyên truyền cho Hội nghị Genève bắt đầu khai mạc 7-5-1954. Hoạt động vào sâu trong lòng địch, nước vàng từ phổi bên sườn trái vẫn rỉ ra, các đồng chí Nghĩa, Chính... hàng ngày vẫn băng bó cho tôi.

Có hôm bị địch bao vây ở thôn Xích Thổ, huyện An Dương, tôi phải chui hầm nước suốt ngày, đỉa bám vào cả bên vết thương.

Ngẫm nghĩ lại 26 tháng bị giam đày ở các nhà tù đế quốc, tôi như thấy đã trải qua một chặng đường dài ghê gớm, đúng như câu: “Nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại”. Khi thả tôi ra, địch dự đoán tôi không còn sống quá 2 năm, bởi ba lí do:

1. Phổi đã thành lỗ rò thì không liền được.
2. Có liền được thì dính vào xương sườn chỉ sau một trận ho, phổi rách mà chết.
3. Dễ nhiễm vi trùng lao (BK) rồi chết.

Các bác sĩ ta, Tây đều lấy làm lạ là phổi tôi đã lành, chỉ vôi hoá hai bên, hai bên gần giống nhau (trừ vết thương), sức thở của phổi trở lại bình thường. Các bác sĩ Đức, Tiệp, Nga đều nói đây là trường hợp rất hiếm gặp.
(còn tiếp)
0 Response to 'Làm Người Là Khó, Chương 4- Đoàn Duy Thành'