Free Website Hosting

Chương 10
Một số đồng chí uỷ viên bộ chính trị,
uỷ viên Ban bí thư thời kì đó,
đối với Đảng bộ và nhân dân Hải Phòng
Đồng chí Trường Chinh

Anh Trường Chinh làm Tổng Bí thư Đảng ta hai thời kì từ 1942-1956 và thời kì từ 9-1986 đến 12-1986, nhiều năm làm Chủ tịch Quốc hội và Chủ tịch nước.

Tôi nghe tiếng anh và biết anh từ lâu, nhưng trực tiếp làm việc với anh nhiều là từ khi tôi làm Chủ tịch UBND thành phố Hải Phòng rồi Đại biểu Quốc hội khoá 7 và khoá 8. Trong những năm chuẩn bị thực hiện khoán sản phẩm trong nông nghiệp, tôi đặc biệt quan tâm theo dõi hành động, thái độ của anh đối với khoán trong nông nghiệp. Vì anh là người nổi tiếng bảo vệ mô hình hợp tác xã nông nghiệp kiểu cũ, và đã có 2 bài đăng trên báo Nhân Dân năm 1966, phê phán việc làm khoán hộ ở tỉnh Vĩnh Phúc, do Bí thư Tỉnh uỷ Kim Ngọc đề xướng.

Tôi lại biết anh rất thận trọng trong nói năng, viết lách, ứng xử... Anh đã được mọi người thân quen đặt cho cái tên thân mật để gọi là: “Anh Thận”. Sau này thống nhất đất nước, các đồng chí miền Nam còn gọi anh là: “Anh Năm Trường Chinh”.

Tôi kém anh hơn 20 tuổi, nhưng tôi vẫn gọi anh bằng “Anh”, vì anh không thích gọi là “bác” là “Chủ tịch”. Anh gọi tôi bằng “đồng chí”. Trong những chuyến thăm Hải Phòng hoặc anh xuống nghỉ tại Đồ Sơn, tôi có dịp tiếp xúc với anh nhiều. Anh hay kể chuyện về những ngày bắt đầu tham gia cách mạng, sự học hành khi còn thiếu thời. Anh nói rằng: “Trước khi tiếp cận với chủ nghĩa Marx - Lênin, với đường cách mạng của đồng chí Nguyễn Ái Quốc, anh giác ngộ về tinh thần yêu nước qua thơ, văn của Cao Bá Quát. Bởi vậy tôi có ấn tượng anh là nhà “Uyên thâm túc nho”, nhất là cụ thân sinh ra anh đỗ Tú tài (Cụ Tú Đễ).

Tết âm lịch năm 1980, anh xuống ăn Tết ở Hải Phòng. Ngày mồng một Tết lại là ngày sinh nhật của anh.

Chín giờ sáng tôi cùng một số cán bộ lãnh đạo Thành phố ra Đồ Sơn chúc Tết và mừng ngày sinh nhật của anh. Chúng tôi có tặng anh một tấm thảm len nhỏ, thêu: “Thánh Gióng cưỡi ngựa”. Tôi viết lại một đôi câu đối của Cao Bá Quát ở đền thờ Thánh Gióng tại Gia Lâm, Hà Nội, nội dung:
Phá tặc đãn hiềm tam tuế vãn,
Đằng vân do hận cửu thiên đê


[Nghĩa là: “Ba tuổi đánh giặc còn cho là muộn.
Bay lên chín tầng mây còn giận là thấp!”]
Tôi viết bằng chữ Hán, khi đưa đến anh, anh bảo tôi đọc và dịch sang tiếng việt. Anh nói: “Hay thế nhỉ!”, rồi anh bảo đúng là khí phách Việt Nam. Tôi vừa giật mình, vừa bất ngờ. Anh nói ngay, lúc nhỏ tôi có học một ít chữ Hán, sau này học ít chữ phổ thông Trung Quốc, nên không đọc được chữ cổ. Rồi anh lại kể về thơ Cao Bá Quát, do một số bạn học của anh biết chữ Hán dịch cho nghe; hoặc những bài thơ nôm của Cao Bá Quát đã viết sang chữ quốc ngữ. Anh khen Cao Bá Quát là người có khí phách, quán thế...

Sau đó anh hỏi tôi về sức học Hán Tự, tôi báo cáo anh, tôi đã học xong Tứ Thư, còn Lục Kinh tôi đã học Kinh Thi, Kinh Xuân Thu. Còn Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Thư tôi chỉ đọc qua thôi. Kinh Dịch nhiều chỗ khó lắm! phải hỏi bố tôi và bác tôi giảng cho mới hiểu. Sau đó tôi nói: “Hà Nam Ninh là đất văn học, nhất là từ khi Nam Định có trường Thi Hương, thì Nam Định nổi lên là nơi có nhiều người học cao, có hai “Tam Nguyên”. Anh liền hỏi 2 Tam Nguyên là ai, tôi chỉ biết cụ Nguyễn Khuyến ở Bình Lục, Hà Nam... Tôi báo cáo với anh còn cụ Trần Bích San quê ở Nam Định, 34 tuổi đã đỗ Tam Nguyên, 36 tuổi vua Tự Đức sai đi sứ sang Pháp. Việc không thành, cụ đã thắt cổ tự tử. Trước khi mất cụ Trần Bích San đã viết một bài thơ tứ tuyệt tự thán rất hay.

Anh Trường Chinh liền nói: “Thế mà tôi không biết cụ Trần Bích San”. Tôi báo cáo với anh cụ Trần Bích San mất sớm nên ít người biết. Còn thơ văn của cụ để lại nhiều, ta nên sưu tầm... Nhà tôi trước đây có nhiều bài thơ, bài viết, nhất là bài “Đình Đối” của cụ rất nổi tiếng. Tiếc rằng khi giặc Pháp chiếm ga Lai Khê tháng 12-1946, chúng đốt hết làng tôi, nên sách vở của gia đình tôi bị cháy hết. Anh Trường Chinh tỏ ra rất tiếc, và bảo tôi có nhớ bài thơ “Tứ tuyệt” của cụ Tam nguyên Trần Bích San, thì đọc cho nghe.

Tôi đọc 4 câu thơ đó:
Giá mã kì khu khởi nhất hành,
Cảm tương tâm sự khấu sơn anh,
Tây lương kĩ lưỡng thử như thử
Nam quốc sơn hà linh bất linh?
Tôi dịch cho anh nghe. Anh hỏi tôi có dịch thành thơ được không? Tôi nói dịch được nhưng không hay, xin phép anh hôm sau tôi sẽ dịch và báo cáo với anh. Hôm sau tôi ra Đồ Sơn báo cáo với anh bản dịch sang tiếng Việt của tôi:
Người ngựa ra đi luống gập ghềnh,
Xin cùng Thần Núi dãi tâm tình,
Giặc Tây ngoan cố là như thế
Non nước Việt Nam liệu có thiêng?
Anh khen dịch thế là đắt nghĩa, hay lắm!

Tôi lại nói theo thiển ý của tôi bài thơ này của cụ Tam nguyên Trần Bích San có bóng dáng của bài thơ “ Nam Quốc Sơn Hà” của cụ Lí Thường Kiệt. Anh Trường Chinh đồng tình và nói thêm: “Nhất là câu Nam Quốc sơn hà linh bất linh?”.

Anh bảo tôi Hải Dương cũ là đất văn học. Tôi thưa với anh: “Hải Hưng có hai lưỡng quốc trạng nguyên là cụ Mạc Đĩnh Chi và cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm”. Cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm quê ở Vĩnh Bảo, Huyện Vĩnh Bảo trước năm 1947 cũng thuộc Hải Hưng. Cho nên trước đây đã có câu so sánh về học lành của hai tỉnh miền Bắc là: “Xứ Đông Cổ Am” (quê Trạng Trình - Nguyễn Bỉnh Khiêm. Khi xưa xã Cổ Am và xã Lí Học là một xã), “Xứ Nam Hành Thiện” (Hành Thiện là quê đồng chí Trường Chinh). Đồng chí Trường Chinh rất tâm đắc câu ví von đó:

“Xứ Đông Cổ Am
Xứ Nam Hành Thiện”

Trong những năm tháng vận động cho được sự đồng tình của 3 anh chủ chốt trong Bộ Chính trị là anh Lê Duẩn, anh Trường Chinh, anh Phạm Văn Đồng thì anh Trường Chinh là một điểm chúng tôi phải thuyết phục, vận động cho bằng được anh đồng ý. Anh Trường Chinh đồng ý thì mới có thể làm rộng ra cả nước, mới giải quyết tận gốc thiếu lương thực và đói khổ.

Qua tiếp xúc tôi thấy anh rất dễ gần, không khó khăn như một số đồng chí nói. Tôi mời anh đi thăm nhiều hợp tác xã nông nghiệp ngoại thành, đi thăm các khu quai đê lấn biển, nhất là thăm đảo Đình Vũ và đường xuyên đảo. Đi tới đâu anh chị em ở đơn vị báo cáo, anh rất chú ý lắng nghe, và thường nhắc đi, nhắc lại hai từ: “Hay nhỉ!” với nụ cười rất tươi. Anh chỉ hỏi những điều chưa rõ. Không thấy anh tranh luận, hoặc nêu vấn đề cho anh em thảo luận. Nhưng tôi thấy anh suy nghĩ nhiều. Trưa về ăn cơm tôi cũng thấy anh suy nghĩ... Ngay cả trong câu chuyện lúc nghỉ, anh vẫn hỏi tôi chi tiết về cuộc sống của nông dân, của công nhân, của bộ đội, của cán bộ viên chức. Những lúc ấy tôi cung cấp cho anh những số liệu cụ thể, thiết thực về đời sống của nhân dân, của cán bộ, công nhân, viên chức, lực lượng võ trang đóng trên địa bàn thành phố... Có những thời kì anh xuống làm việc hàng tuần. Tôi và đồng chí Hà Nghiệp, trợ lí của anh, đưa anh đi xem hết nơi này nơi khác. Cuối cùng là sau 5 lần xin ý kiến về khoán sản phẩm trong nông nghiệp, anh đã đồng tình. Không những thế anh còn động viên tôi. Anh nói: “Đồng chí đã nắm được lí luận, nắm được thực tế, đồng chí cố gắng làm để thành hiện thực cho cả nước”. Anh không những chỉ quan tâm đến khoán trong nông nghiệp, anh quan tâm đến sản xuất công nghiệp, đến thương nghiệp...

Nhà anh có giàn phong lan ở cửa rất đẹp. Anh chọn những giò phong lan đẹp nhất tặng cho quán Phong Lan hai lần. Lần nào anh cũng bảo tôi đến nhà và trực tiếp chọn phong lan tặng cho Hải Phòng đồng thời gửi thư cho cán bộ mậu dịch viên ở quán Phong Lan. Khi đi thăm quán Phong Lan, anh xem từng gian hàng và nói chuyện với anh chị em mậu dịch viên rất thân mật. Đến nay nhiều đồng chí như Vân Nam... còn nhớ nhiều kỉ niệm của Chủ tịch Trường Chinh với quán Phong Lan. Tiếc rằng quán Phong Lan nay không còn nữa, qua biến thiên phá đi hợp doanh không thành, nay nó trở thành vườn hoa trung tâm thành phố.

Anh còn có những chuyến đi thăm đảo Cát Bà, Cát Hải, thăm lực lượng Hải quân, thăm bộ đội quân khu 3 làm kinh tế “làm giàu đánh thắng”, thăm lực lượng tên lửa thực tập bắn tên lửa ở Quần Mục. Biết bao kỉ niệm của đồng chí Trường Chinh với Hải Phòng thời kì “đổi mới”. Anh Hà Nghiệp nhiều lần nói với tôi: “Anh Thận thay đổi tư duy nhiều là từ ngày Hải Phòng đổi mới, nhất là khoán sản phẩm trong nông nghiệp...”.

Tôi tuy là bậc đàn em, nhưng anh rất lắng nghe và trao đổi thân tình, bảo ban từng li tùng tí, qua những câu chuyện có nội dung giáo dục. Tôi đã viết về anh ở chương 6 và chương 7, tôi không lặp lại ở chương này. Tôi thấy anh là một nhà chính trị lỗi lạc, người học trò xuất sắc của Bác Hồ, người bạn thân thiết của anh Ba. Hai anh rất quý nhau và tôn trọng nhau. Những năm cuối đời của hai anh, tôi rất gần hai anh. Từ việc nhỏ đến việc lớn, các anh đều tạo cho nhau một sự thống nhất cao.

Nếu còn gợn lên một chút là chờ đợi, trao đổi cho thống nhất. Cả hai anh đều nói với tôi là giữ sao cho đoàn kết thật sự, cùng nhau xây dựng đất nước mới thành công. Mỗi việc tôi xin ý kiến, các anh đều hỏi lại ý kiến của nhau cho thống nhất. Tôi nghĩ 2 cái đầu đó cộng lại nó sáng 1000 bougies. Khi anh làm cố vấn Ban Chấp hành Trung ương, cứ 3 tháng một lần anh bảo tôi lại chơi, nói chuyện tình hình kinh tế thế giới, trong nước, cho anh nghe. Anh rất quan tâm đến mọi việc của quốc gia. Anh đúng là cán bộ mẫu mực mọi mặt, đã góp phần to lớn vào sự nghiệp đổi mới đất nước.

Thủ tướng Phạm Văn Đồng

Trong các chương trước tôi đã nói nhiều về anh Tô (tên gọi thân mật của Thủ tướng Phạm Văn Đồng). Chương này tôi chỉ nêu một vài chi tiết về sự quan tâm của anh Tô đối với Hải Phòng.

Trong những năm kinh tế khủng hoảng của thập kỉ 80, mỗi khi xuống thăm và làm việc ở Hải Phòng, anh có nhiều suy nghĩ, tìm cách gì để thoát ra khỏi sự khủng hoảng kinh tế. Trong các câu chuyện tôi thấy anh hiểu sâu sắc về những lí luận kinh tế kinh điển của Marx - Lênin và một số nhà kinh tế tư bản. Nhưng anh ít đề xuất những vấn đề mới, chỉ nghe nhiều, suy nghĩ nhiều. Khi thấy bức bách thì lời nói da diết, dằn vặt... Tôi hỏi ý kiến anh về khoán sản phẩm trong nông nghiệp thì anh vui hẳn lên, và hỏi tôi: “Ý kiến anh Ba và anh Trường Chinh thế nào?”. Tôi báo cáo: “Anh Ba đồng ý và tỏ thái độ quyết tâm cho làm, còn anh Trường Chinh chưa trả lời, nhưng thái độ bình thường, còn tiếp tục đi xem tình hình nông nghiệp của Hải Phòng và một số tỉnh”. Anh ngồi suy nghĩ một lát rồi đứng dậy nói: “Làm lấy mà ăn mà cũng còn khó...”. Rồi anh cười vui vẻ nói : “Các đồng chí cố thuyết phục anh Năm, để thống nhất sớm...”. Như vậy là anh Tô đã đồng ý về khoán sản phẩm nông nghiệp cho nông dân, tôi rất mừng.

Đầu năm 1980, tình hình kinh tế cả nước rất khó khăn. Hải Phòng lại càng khó khăn, vì phải lo nguyên liệu cho sản xuất công nghiệp. Nhưng lo hơn cả là cái ăn cho người, thực sự phải chạy gạo từng bữa. Xe Chủ tịch thành phố vừa ra khỏi nhà được vài chục mét, hai mẹ con một người làm thủ công nghiệp (diện phi nông nghiệp) ở Thuỷ Nguyên, không được đong gạo đã lăn ra trước xe Chủ tịch thành phố. Mọi người dân tò mò kéo nhau chạy lại xem sự kiện gì mà lại lăn ra trước xe Chủ tịch. Tôi cho đỗ xe lại, hỏi người đó thì được biết hai tháng nay huyện không có gạo bán cho họ. Tôi bảo bà ta về văn phòng Uỷ ban giải quyết. Khì bà ta đến văn phòng Uỷ ban, tôi mới biết là huyện không những không có gạo bán, mà còn thu sổ gạo của gia đình bà ta. Bà ta nói: “Gạo chưa có bán thì chịu, chứ sổ gạo là cuộc sống của gia đình, mất sổ chỉ có chết đói. Còn sổ, thiếu gạo còn đi vay hàng xóm được. Mất sổ rồi không ai cho vay cả”. Tôi điện cho Huyện bảo trả lại sổ cho bà ta. Huyện báo cáo lại: “Bà ta không chịu lao động, lại đi buôn, phá rối thị trường”. Tôi bảo Huyện trả lại sổ gạo, còn bà ta đi buôn bán vặt để kiếm sống thì gọi đến giáo dục, không nên thu sổ gạo. Thu sổ gạo tựa hồ cắt cái dạ dày của người ta là không được. Sau đó tôi bảo bà ta về huyện nhận lại sổ gạo. Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa, một đồng chí ở Văn phòng Chính phủ điện xuống hỏi tôi việc này thực hư ra sao? Tôi trả lời: “Do thiếu lương thực gây ra cả, cứ có lương thực là xong hết”. Tôi nói vui: “Có thực mới vực được đạo mà. Tôi đề nghị đồng chí báo cáo Thủ tướng cho làm khoán sớm là xong hết”. Đồng chí đó nói lại : “Hôm Thủ tướng gặp anh, thế là Thủ tưóng đồng ý rồi”...

Tháng 7-1980 anh Tô xuống Hải Phòng làm việc và nghỉ ít ngày ở Đồ Sơn. Tôi đưa anh đi xem Cảng, xem các đống sắt thép phế thải đổ dọc bờ sông Cấm từ Thượng Lí đến Quán Toan. Tôi đề nghị anh Tô cho xuất. Anh xem kĩ và sờ tay vào một sa-lan giải bản. Tôi lấy tay đấm vào thành sa-lan, những miếng thép đã oxy hoá rơi lả tả. Tôi báo cáo anh Tô, nếu để lâu sẽ oxy hoá hết, chỉ là đống đất, không phải sắt thép phế thải nữa, thiệt hại rất lớn.

Anh Tô hỏi tôi: “Xuất thì bao nhiều tiền một tấn?”. Tôi báo cáo anh, từ 70 đến 100 USD/tấn, tuỳ theo chất lượng. Anh bảo : “Tôi về Hà Nội sẽ tìm cách đáp ứng yêu của của đồng chí”. Tôi rất mừng. Đúng một tuần sau, đồng chí Nguyễn Văn Ích, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ kí một công văn, thừa lệnh Thủ tướng cho phép Hải Phòng xuất khẩu 2 vạn tấn sắt thép phế thải. Lần đầu tiên nước ta xuất khẩu loại hàng này. Sau đó lại được anh Ba đồng ý.

Cả nước đã xuất hết các bãi sắt thép phế thải để rải rác khắp nơi, làm sạch những quãng đường, những khu công nghiệp, những nơi bốt địch đóng dọc đường số 1 và các sân bay, bến cảng. Hàng triệu tấn sắt thép phế thải đã được xuất khẩu. Nhà nước thu nhập thêm ngoại tệ mạnh và có việc làm cho một số lao động đi thu gom sắt thép phế thải các nơi về bán. Tuy vậy cái gì nó cũng có mặt trái của nó. Do không quản lí chặt chẽ, nên một số người tham lam đi ăn cắp, phá cả những thiết bị còn sử dụng được, lấy sắt thép để bán. Thậm chí lấy cắp cả xích, còng ở nhà tù Côn Đảo đem đi xuất khẩu. Sau ta đã ngăn chặn kịp thời.

Thủ tướng Phạm Hùng

Các chương trước tôi đã viết đôi nét về anh Phạm Hùng. Cuộc đời cách mạng đầy kì tích của anh như một huyền thoại mà tôi chỉ được nghe kể. Mãi đến ngày hoà bình lập lại ở miền Bắc, năm 1958, anh là Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm Trưởng ban chỉ đạo “Ba xây, ba chống”, còn tôi làm Chủ nhiệm công ti thương nghiệp Hải Phòng, sau đó làm Giám đốc Sở Thương nghiệp, khi đó, tôi mới có dịp gặp anh. Anh thường trao đổi với tôi về kinh nghiệm chống tham ô, móc ngoặc, kinh nghiệm “Ba xây, ba chống” và những vấn đề về lập trường tư tưởng của người cộng sản. Ở anh là tinh thần nói thẳng, nói thật, nói đúng suy nghĩ của mình. Sau này, khi anh được điều vào làm Bí thư Trung ương cục miền Nam, tôi ít khi được gặp anh, nhưng những lần gặp nhau ít ỏi đó, anh thường kể cho tôi nghe về tình hình đấu tranh của cách mạng miền Nam, của Nam Bộ anh hùng.

Sau ngày đất nước hoàn toàn thống nhất, khi tôi là Chủ tịch thành phố, rồi Bí thư Thành uỷ Hải Phòng thì anh là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, kiêm Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Cứ vài tháng anh lại xuống Hải Phòng một lần, có tháng xuống 2 lần. Tôi đưa anh đi xem các công trình lấn biển, mở đường tại Cát Bà, Cát Hải; xuống các làng xã, phố phường tìm hiểu đời sống nhân dân qua phong trào mở ngõ hẻm, xây dựng nhà vệ sinh... mà lúc đó Hải Phòng là địa phương dẫn đầu cả nước. Anh rất phấn khởi nói: “Thế này mới là cách mạng, mới là chủ nghĩa xã hội. Nếu chỉ nói mà không làm thì không bao giờ có cả”. Anh rất muốn từ thực tiễn của Hải Phòng xây dựng các mô hình phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, xây dựng cơ sở vật chất, kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội.

Tôi cũng đưa anh đi kiểm tra tình hình sản xuất nông nghiệp tại Tiên Lãng, Vĩnh Bảo, Thuỷ Nguyên, có đợt đi hai ba ngày liền. Khi đến cống thuỷ nông Thượng Đồng, Trung Trang, anh nói: “Phải gọi là cụm thuỷ nông đầu mối, là tổ hợp tưới tiêu mới đúng tâm cỡ của nó, không thể chỉ gọi là cống”. Anh về thăm nông dân làm khoán, cầm bông lúa trĩu hạt, anh cười rất tươi và nói với tôi: “Chắc chắn miền Bắc sẽ lo được lúa gạo. Miền Nam sẽ không phải đưa gạo ra miền Bắc nữa mà dành cho xuất khẩu”. Điều anh nói nay đã thành sự thật. Con số 34 triệu tấn lương thực và hơn 4 triệu tấn gạo xuất khẩu hiện nay đạt được thì thời đó có lẽ chỉ là giấc mơ. Chỉ có anh là dự đoán được.

Năm 1987, tình hình kinh tế xã hội rất khó khăn do mất mùa và không nhập khẩu gạo kịp. Ở Thanh Hoá và Nghệ An đã có người chết đói. Lúc đó anh là Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và tôi là Phó, trách nhiệm của anh rất nặng nề. Ngày mồng 4 Tết đầu năm 1988, tôi đến nhà riêng thăm anh. Anh nói mà không cầm được nước mắt: “Tình hình khó khăn quá, tôi phải ở lại Hà Nội để chạy gạo ăn tết”. Sau Tết anh vào Nam để chỉ đạo lo vấn đề lương thực cho dân. Không ngờ mấy hôm sau thì chúng tôi được tin anh mất. Có lẽ do tận tâm, tận lực, trăn trở tìm giải pháp đưa đất nước thoát khỏi thời điểm khó khăn này, công việc đã vắt cạn kiệt sức lực của anh. Anh đã trở về bên Bác Hồ, Các Mác, Lê-nin, nhưng anh đã để lại lòng tiếc thương vô hạn cho đồng bào, đồng chí.

Đại tướng Võ Nguyên Giáp

Anh Văn tên gọi thân mật của Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tuy là nhà quân sự số một của Việt Nam, rất bận công việc chuyên ngành, nhưng anh Văn rất quan tâm nghiên cứu về kinh tế. Anh hay tâm sự với tôi: “Đánh thắng giặc ngoại xâm rồi là phải làm kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, trả ơn đáp nghĩa đối với người đã hi sinh cho tổ quốc, có thực lực xây dựng và bảo vệ tổ quốc...”.

Trong thời kì Hải Phòng bắt đầu đổi mới, anh thường xuống Hải Phòng xem các công trường có lực lượng võ trang tham gia như quai đê lấn biển, xem đường xuyên đảo, con đường không những chỉ có ý nghĩa về kinh tế mà còn có ý nghĩa lớn về quốc phòng. Anh ra Cát Bà, đi Tiên Lãng, anh vừa thăm hỏi bộ đội làm kinh tế, vừa xem xét bố trí lực lượng bảo vệ bờ biển. Đến đâu anh cũng gặp gỡ các chiến sĩ đang lao động hoặc đang đứng gác, trò chuyện thân mật như cha con trong gia đình. Anh em rất phấn khởi được gặp vị tướng tài huyền thoại mà họ nghĩ không bao giờ được nhìn thấy, nay lại còn được bắt tay, trò chuyện. Nhiều anh em chiến sĩ kể với tôi, sau khi Đại tướng đã ra về: “Chúng cháu nghĩ đi bộ đội chỉ mong sao được gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp, không ngờ hôm nay được gặp Đại tướng thật, cháu mừng quá! Tối nay cháu phải viết thư về gia đình báo tin mừng cho bố mẹ cháu ngay...”

Anh đi sâu nghiên cứu tình hình nông dân và sản xuất nông nghiệp. Có lần anh xuống cả Mỹ Đức huyện Kiến Thuỵ cả một ngày. Sáng đi xem nông dân sản xuất, anh xem bà con nhổ mạ, cấy lúa, làm đất. Anh hỏi các “lão nông tri điền” rất tỉ mỉ. Mọi người vui mừng được đón Đại tướng xuống tận ruộng để thăm. Không những thế mà còn gợi ý cho bà con nông dân nên trồng cây gì, nuôi con gì cho có hiệu quả. Anh kể chuyện một số nơi anh đã thăm có kinh nghiệm tốt, anh phổ biến lại cho bà con. Mọi người rất phấn khởi.

Buổi chiều anh làm việc với cán bộ lãnh đạo xã tại trụ sở. Đồng chí Sự, Bí thư Đảng uỷ báo cáo công việc của xã, đặc biệt là kết quả khoán sản phẩm trong nông nghiệp, về năng suất lúa, về cải thiện đời sống cho nhân dân. Nghe xong, anh quay sang hỏi tôi: “Ông nghe học trò báo cáo có được không?”. Tôi báo cáo với anh, đồng chí Bí thư Đảng uỷ báo cáo thế là chân thật, có thế nào báo cáo thế (Anh Văn hay gọi đùa tôi là “ông thầy kinh tế”). Đại tướng rất ủng hộ chủ trương “Làm giàu đánh thắng” của Đại tướng Nguyễn Quyết, Tư lệnh liên Khu 3 (lúc đó Đại tướng Nguyễn Quyết mới là Trung tướng). Cho nên mỗi lần về thăm Hải Phòng anh lại sang thăm quân khu, hoặc ngược lại đến thăm quân khu 3, thế nào anh cũng ghé qua Hải Phòng thăm Thành uỷ, UBND Thành phố. Có lần vội về, anh ghé thăm tôi tại nhà riêng mấy phút rồi về Hà Nội.

Tôi nghĩ ít có vị tướng nào tuổi cao mà luôn luôn đáp ứng mong mỏi của quần chúng, nhất là đối với lực lượng võ trang. Đó là điều đáng quý “Để lại non sông một chữ tình” là thế! Đối với tôi, anh Văn hơn tôi 19 tuổi, tôi vốn là hậu sinh, đàn em của anh, nhưng mỗi khi gặp tôi anh đều bảo tôi nói về tình hình kinh tế trong nước và quốc tế cho nghe. Sau đó, anh có những nhận xét sắc sảo về tình hình kinh tế trong nước, cách làm ăn của ta có những ưu, khuyết điểm gì. Mỗi khi có những vấn đề kinh tế anh cần nói chuyện với tôi, anh thường gọi điện cho tôi và hẹn đến thăm. Nhưng bao giờ tôi cũng chủ động đến báo cáo với anh. Có lần anh đến thăm nhà tôi ở số 4 Nguyễn Khắc Cần, có cả chị Hà, phu nhân của anh cùng đi.

Anh chị ngồi chơi nói chuyện với vợ chồng tôi một lúc. Rồi anh bảo tôi lên gác xem nhà ông Thành có đẹp không. Tôi mời anh lên gác xem, anh bảo chị Hà ở lại ngồi chơi với nhà tôi, anh đi ra ngoài ban công nói nhỏ với tôi: “Manoeuvre politique” bấy giờ tôi mới hiểu. Có thế thôi mà anh phải thận trọng, phải lên gác và ra ngoài ban công, mà chỉ nói nhỏ thôi. Nay tôi xin phép anh, tôi nói to cho mọi người biết. Khi tôi đến chơi nhà, chị Hà hay nói với tôi: “Anh Văn thật thà lắm! Có gì anh bảo anh Văn giúp”. Tôi thưa với chị: “Tôi là học trò đến học anh, còn chị là giáo sư sử học, chị biết câu tục ngữ của tổ tiên ta để lại “Thật thà là cha quỉ quái”, chị không nên phiền lòng. Thật thà của anh sẽ để lại “Hồng phúc” cho các cháu”.

Những chương trước tôi đã nói về anh, có những tâm tư u uẩn trong cuộc đời hoạt động của mình vì có những người vu khống lí lịch anh...

Tôi rất buồn khi viết đến đây. Đáng lẽ Đảng ta phải biết bảo vệ những cái tốt đẹp của từng cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cao cấp. Phải coi đó là những báu vật quý hiếm, phải gìn giữ, dồn góp lại thành những viên hồng ngọc để con cháu đời đời noi theo. Còn mỗi người chúng ta phải giữ cho mình trong sạch, lại được tổ chức bảo tồn, thì những tấm gương đó sẽ tái tạo lại ở các thế hệ kế tiếp. Trong sáng, đẹp đẽ như Bác Hồ, đã là tấm gương cho chúng ta noi theo. Tại sao ta không biết làm như vậy, mà lại làm ngược lại. Thật là tiếc lắm thay!

Phó Chủ tịch Nhà nước Lê Thanh Nghị

Đồng chí Lê Thanh Nghị là một nhà cách mạng lớn của Đảng và Nhà nước ta, nguyên là Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, Phó Thủ tướng Chính phủ, người kí Chỉ thị số 100/BBT tháng 1-1981 cho mở rộng khoán sản phẩm nông nghiệp trong cả nước.

Anh vốn xuất thân là một công nhân điện, tham gia cách mạng từ những năm 1930, anh hoạt đồng nhiều ở Hải Dương và Hải Phòng, nhất là thời kì tiền khởi nghĩa, anh phụ trách miền Duyên Hải, chỉ đạo khởi nghĩa Hải Phòng, làm Bí thư khu 3 thời bắt đầu kháng chiến, sau về làm Phó Bí thư Liên khu 3, Bí thư Liên khu 3. Anh lấy chị Thanh, người Hải Phòng, nên có mối quan hệ cách mạng và tình cảm gia đình với Hải Phòng rất thắm thiết. Trong những chương khác tôi đã viết về anh Lê Thanh Nghị, chương này tôi chỉ nêu một số điều về việc anh quan tâm đến phong trào của nhân dân Hải Phòng, đặc biệt của công nhân những năm 60, khi có phong trào “sóng Duyên Hải, gió Đại Phong”. Anh phụ trách công nghiệp, thường xuyên xuống Hải Phòng để chỉ đạo và đúc rút kinh nghiệm về thi đua yêu nước, dấy lên từ “Sóng Duyên Hải” làm điểm để phổ biến cho các thành phố và khu công nghiệp khác.

Những năm 70, 80 nhất là sau ngay giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, anh phụ trách kinh tế, công việc bận rộn, nhưng anh vẫn giành cho Hải Phòng sự quan tâm, nhất là khi khó khăn về lương thực cho công nhân. Anh ít nói, điềm tĩnh, suy nghĩ kĩ. Với địch thì rất kiên cường, không nhượng bộ một bước, nhưng với đồng chí, đồng bào, anh không to tiếng với ai bao giờ. Đồng chí Phạm Hùng kể lại cho tôi nghe về anh Lê Thanh Nghị khi cùng tù với anh Phạm Hùng ở nhà tù Côn Đảo. Anh Hùng kể: “Trong những buổi xếp hàng đi làm coóc-vê, hoặc vào phòng ngủ, anh Nghị bao giờ cũng đi trước hoặc đi cùng để đón đòn cho anh em. Địch đánh đập xua đuổi mọi người, anh cứ ung dung thư thái, đĩnh đạc, không bao giờ chạy. Địch càng đánh, anh càng đi thong thả, không nhìn ngang, nhìn ngửa, làm cho địch phải gờm. Các đồng chí khác cũng noi gương anh đi đứng đàng hoàng làm địch phải nể, bớt dùng roi vọt với anh em.”

Khi chuẩn bị làm khoán trong nông nghiệp, Thành uỷ Hải Phòng báo cáo Ban Bí thư, anh Nghị là Thường trực Ban Bí thư, anh chú ý lắng nghe, và đi xem tình hình sản xuất nông nghiệp. Tôi đưa anh đi xem nhiều nơi ở ngoại thành. Khi chuẩn bị ra Chỉ thị 100, Văn phòng Trung ương đã chuẩn bị đưa sang anh kí, anh còn gọi tôi lên nhà riêng để xem đi xem lại từng chữ. Lúc đầu dự thảo nói thẳng là khoán đến hộ gia đình, nhưng chữ “Khoán hộ” lúc đó rất kiêng kị coi như phạm “huý”. Anh bảo tôi tìm chữ gì thích hợp. Tôi bàn với anh Bùi Quang Tạo, anh Hữu Thọ, trao đi đổi lại, mới tìm được cụm từ có thể được nhiều người đồng tình là: “Khoán đến nhóm lao động và lao động xã viên” đưa lên anh Nghị xem. Anh nhất trí. Sau đó anh Nghị kí Chỉ thị 100/BBT tháng 1-1981.

“Vạn sự khởi đầu nan”, từ Nghị quyết của Ban Thường vụ Thành uỷ Hải Phòng ngày 27-6-1980 về khoán trong nông nghiệp, đến Chỉ thị 100/BBT cách nhau hơn 7 tháng mà biết bao khó khăn vướng mắc, chúng tôi suy nghĩ đắn đo bao tháng ròng và các anh ủng hộ khoán ở Trung ương cũng trăn trở suy nghĩ biết bao ngày đêm để giải quyết. Đói thì đói, nhưng chỉ sợ mất lập trường, mất chủ nghĩa xã hội, mà chủ nghĩa xã hội thì có ai đã hình dung ra được cụ thể như thế nào? Chỉ biết là phải làm cho mọi người sung sướng, hoặc như Marx nói về thời kì cuối của xã hội xã hội chủ nghĩa là: hàng hoá phải nhiều như nước trong nguồn chảy ra, mới tiến lên cộng sản được. Thế mà một nước nông nghiệp lại thiếu lương thực, đành chịu chết đói, chỉ vì sợ mất chủ nghĩa xã hội, phá vỡ hợp tác xã. Anh Nghị tâm sự với tôi: “Đánh giặc chết người, tù đày hi sinh gian khổ, chết chóc, thì thống nhất quan điểm lại dễ. Nay làm ra gạo ăn, không phải đi xin viện trợ, đi xin viện trợ là tôi phụ trách, tôi thấy khó khăn, mình đi lắm cũng ngượng, thế mà khó quá nhỉ?”.

Sau khi Chị thị 100 của Ban Bí thư ra được 6 tháng, anh Nghị gọi tôi lên hỏi tình hình thực hiện Chỉ thị 100. Tôi báo cáo là anh yên tâm, trúng rồi đó, quần chúng phấn khởi, lúa tốt lắm! Anh hỏi lại tôi: Sao họ nói quá thể, nhất là Ban Nông nghiệp Trung ương báo cáo, nhiều nơi phá bỏ bờ vùng bờ thửa đã qui hoạch... Họ kêu lắm!”. Tôi báo cáo anh: “Một số anh em chưa thông với Chỉ thị 100 của Ban Bí thư, nên hay tập hợp những mặt tiêu cực, đối khi còn nói vống lên... Anh yên tâm là tôi báo cáo đúng, không một chiều...”. Lúc đó anh Nghị mới yên tâm. Chị Thanh, phu nhân anh Nghị nói chen vào: “Mấy hôm nay anh lo lắm! Vì anh là người kí Chỉ thị 100, nếu sai họ sẽ đổ cho anh hết, hôm nay chú nói chắc vậy anh mới yên tâm”. Tôi xin phép về. Anh Nghị dặn có gì khó khăn phải cho biết ngay. Sau 3 tháng lên nói cho anh nghe kết quả.

Đúng như anh Tô nói: “Làm mà ăn cũng khó khăn thế đấy!”. Đến năm 1989, tôi làm Bộ Trưởng Kinh tế đối ngoại, kí chuyến xuất khẩu gạo đầu tiên, tôi đến báo cáo anh Nghị. Anh ngẫm nghĩ và rưng rưng nước mắt. Chị Nghị bảo “Bây giờ Ba phải vui chứ! Có gạo ăn rồi, lại có gạo xuất khẩu không phải đi xin nữa, sao Ba lại khóc...” (Chị Nghị thường gọi anh Nghị bằng Ba). Cuối năm 1990, gạo xuất được nhiều hơn, gần 2 triệu tấn, thì anh Lê Thanh Nghị của chúng ta qua đời. Một con người suốt cuộc đời lo cho dân, cho nước. Địch tra tấn, đánh đập, không một tiếng kêu, bình tĩnh, thản nhiên. Khi dân có gạo ăn lại khóc, khóc vì sung sướng, khóc vì 2 triệu người chết đói năm 1945 do nước mất nhà tan!

Chủ tịch nước Võ Chí Công

Những năm cuối thập kỉ 70 đầu thập kỉ 80, anh Võ Chí Công là Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng phụ trách Nông nghiệp và Thuỷ sản. Anh thường xuống Hải Phòng làm việc và tôi mới có dịp làm việc với anh Năm Công (tên gọi thân mật của đồng chí Võ Chí Công), con người nổi tiếng trong cuộc kháng chiến chống chiến tranh xâm lược miền Nam nước ta. Tại Liên khu 3, Khu 6 miền Trung anh hoạt động với chức danh công khai là Đại diện Đảng Nhân dân Cách mạng trong Mặt trận Giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, với dáng vóc một nhà nông, khoẻ mạnh, dễ thương. Tôi gặp anh lần đầu đã thấy mến anh. Với giọng nói miền Trung, ngắn gọn, thẳng thắn, không dài dòng, đi ngay vào công việc.

Thời gian đó, Hải Phòng đang chuẩn bị khoán trong nông nghiệp. Với cương vị Uỷ biên Bộ Chính trị, anh ủng hộ ý kiến đề xuất của Hải Phòng rất tích cực. Anh nói rất đơn giản: “Để nông dân người ta cày cấy cho có gạo ăn và nộp thuế cho Nhà nước. Mỗi người có mấy sào bắc bộ có đáng là bao mà sợ họ trở thành địa chủ”. Tôi đưa anh đi xem sản xuất nông nghiệp hồi đó. Anh bảo: “Cứ để làm ăn như thế này thì đói triền miên... tôi sẽ về giúp Thành phố thuyết phục các ngành Trung ương ủng hộ Hải Phòng về khoán trong nông nghiệp”.

Khi Hải Phòng ra NQ số 24 của Ban Thường vụ Thành uỷ, anh Võ Chí Công rất hoan nghênh và ra sức tuyên truyền cho khoán của Hải Phòng. Khi có Chị thị 100 của Ban Bí thư, có cuộc họp sơ kết khoán sản phẩm nông nghiệp ở Hải Phòng và phổ biến Chỉ thị 100 của Ban Bí thư, về việc mở rộng khoán ra toàn quốc, được tổ chức tại Hải Phòng trong 2 ngày. Ngày hôm sau tổng kết hội nghị, đáng lẽ anh Tố Hữu Uỷ viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư sẽ xuống Hải Phòng tổng kết, nhưng vì bận nên anh Võ Chí Công thay mặt Bộ Chính trị và Ban Bí thư tổng kết hội nghị. Trong hội nghị này có một số đại biểu chưa thông với Chỉ thị 100 của Ban Bí thư, có ý kiến không tán thành. Nhưng khi tổng kết, anh Võ Chí Công nói: “Khoán là đúng rồi, các đồng chí đừng sợ. Nếu khoán làm cho trời sụp đổ, tôi sẽ chịu trách nhiệm.”. Ở những bước ngoặt lịch sử trong chiến tranh cũng như trong hoà bình xây dựng kinh tế, phải có những đồng chí dám quyết đoán như vậy mới đưa sự nghiệp cách mạng của Đảng vượt qua được khó khăn, đặc biệt những lúc gay cấn, khắc nghiệt, nếu do dự kéo dài chỉ khổ cho nhân dân, gây tổn thất cho cách mạng.

Anh Lê Đức Thọ, anh Tố Hữu

Hai anh như hai ngôi sao đổi ngôi cho nhau. Anh Lê Đức Thọ nhà chính trị xuất sắc, nhà ngoại giao nổi tiếng ở Hội nghị Paris lại quan tâm làm thơ. Còn anh Tố Hữu nhà thơ cách mạng vĩ đại lại sang làm kinh tế. Hai anh có duyên nợ với nhau, tôi là người đứng giữa cũng được “thơm” lây và cũng bị “vạ” lây.

Về hai anh trong các chương trước tôi đã viết. Chương này chỉ kể vài chuyện về hai anh đối với Hải Phòng và cá nhân tôi.

Hai anh đều rất quý mến Đảng bộ và nhân dân Hải Phòng, nhất là thời kì đổi mới của Hải Phòng, hai anh đều quan tâm, có những lời khen động viên phong trào và cá nhân tôi rất chân thành.

Anh Tố Hữu lại có cả bài thơ “Mừng Hải Phòng” tôi đã nhắc ở chương trước. Ở đây tôi chỉ nói bài thơ có 12 câu này, đã có người phản ảnh sai sự thật và anh Lê Đức Thọ đã phê phán tôi tại Hội nghị các Trưởng ban Tuyên huấn toàn quốc, trước thềm của Đại hội Đảng lần thứ 6 (1986).

Năm 2000, tôi gặp anh Tố Hữu cùng đi họp ở Quốc hội. Anh Tố Hữu nhắc tới bài thơ “Mừng Hải Phòng”. Tôi báo cáo anh Tố Hữu: “Được anh khen mà tôi xuýt chết đấy!” Tôi kể cho anh nghe, anh bảo tôi: “Thế cơ à, mình không biết”. Anh Tố Hữu không những chỉ khen bằng thơ mà lúc đó anh là Phó Thủ tướng Thường trực, đi đâu, có gì hay, hoặc có điều gì không rõ, anh đều đến Hải Phòng phổ biến kinh nghiệm tốt, bàn bạc những vấn đề chưa sáng tỏ. Anh đi kiểm tra Hải Phòng từ nội thành đến ngoại thành, xem công trường quai đê lấn biển Đồ Sơn...

Tết âm lịch 1982, ngày 30, anh từ Quảng Ninh về, tôi mời anh ở lại ăn bữa cơm “tất niên” rồi sẽ về Hà Nội. Ăn cơm xong, trước khi ra về anh đọc cho tôi nghe bài thơ anh mới sáng tác ở Quảng Ninh “... Đêm 30 riêng một ngọn đèn; Dở, hay khôn, dại những chê khen...”. Anh bảo tôi góp ý kiến. Tôi không dám góp, vì ngôn từ và ý của anh đã chuẩn lắm rồi, tôi cho rằng bài thơ in ra sẽ có nhiều người khen về tâm tư thực của nhà kinh tế quốc gia, song chắc sẽ có người chê. Đúng như vậy, khi bài thơ in ra có nhiều ý kiến khen chê, có cả ý kiến xuyên tạc. Sau Tết anh gặp tôi, nhắc đến bài thơ đó. Anh bảo: “Đời là thế đấy, Thành ạ! “.

Anh Lê Đức Thọ sau khi nhận được bài thơ trọn vẹn 12 câu của anh Tố Hữu “Mừng Hải Phòng”, anh không nói gì, tỏ vẻ nghĩ ngợi. Mãi đến năm 1990 trước khi qua đời khoảng 30 ngày, anh Lê Đức Thọ bảo tôi đến chơi. Anh bảo các đồng chí bác sĩ, bảo vệ ra ngoài. Anh nói chuyện với tôi khoảng 40 phút, tôi vừa nghe vừa bóp tay cho anh, vì anh đang bị đau tay và vai bên phải do bệnh ung thư hành hạ. Anh rất tỉnh táo nói với tôi nhiều chuyện tâm phúc, mang tính dặn dò đàn em trước khi từ biệt cõi đời. Cuối cùng anh nói: “Ngay bài thơ của anh Tố Hữu mừng Hải Phòng, họ cũng phản ảnh sai sự thật... Thôi nhé cậu về”. Tôi bắt tay anh, đứng dậy chào anh ra về. Vài hôm sau anh vào bệnh viện 108 và qua đời. Trước khi anh mất 3 ngày, tôi còn vào bệnh viện thăm anh, anh chỉ gật đầu mà không nói được.

Tôi và anh Lê Đức Thọ có duyên gặp nhau khi đến thăm anh Lê Duẩn, tháng 5-1986. Khi tôi ở Hải Phòng đến thăm anh Lê Duẩn đang ốm ở nhà biệt thự số 10 Hồ Tây, thì gặp anh Lê Đức Thọ vừa ra khỏi cổng. Năm 1988 lần giỗ thứ hai ngày mất của anh Ba, tôi đến thắp hương cho anh, lại gặp anh Lê Đức Thọ ở giữa sân. Anh vừa vào thắp hương cho anh Ba xong. Tôi chào anh, hỏi thăm sức khoẻ anh, rồi tôi vào thắp hương cho anh Ba. Giáo sư, tiến sĩ Hồ Ngọc Đại, con rể anh Ba ra đón tôi. Hồ Ngọc Đại nói: “Anh Lê Đức Thọ vừa khen anh”. Tôi hỏi: “Khen thế nào?” Đồng chí Hồ Ngọc Đại nói: “Anh Thọ khen ba tôi chọn anh là chính xác”. Tôi suy ngẫm lại, sau Đại hội 6, anh Thọ quả có quan tâm đến tôi thật.

Các anh Nguyễn Duy Trinh, Trần Quốc Hoàn, Văn Tiến Dũng, Chu Huy Mân, Nguyễn Thanh Bình, Nguyễn Đức Tâm, Đồng Sĩ Nguyên, Hoàng Tùng, Vũ Oanh, Nguyễn Quyết, Lê Quang Đạo... cũng rất quan tâm đến cuộc đổi mới của Hải Phòng.

Anh Nguyễn Duy Trinh 30 Tết năm 1981 còn xuống Hải Phòng, bàn biện pháp tìm ra vốn để phát triển sản xuất, khai hoang lấn biển.

Anh Trần Quốc Hoàn, mồng 2 Tết năm 1982 xuống thăm và chúc Tết nhân dân Hải Phòng, xem khoán sản phẩm trong nông nghiệp kết quả ra sao. Anh bảo tôi: “Thiếu lương thực thì phải khoán thôi, sau này có đủ lương thực rồi phải nghĩ cách nào vừa có lương thực, vừa giữ được hợp tác xã”. Tôi báo cáo với anh: “có thực mới vực được đạo” có đủ lương thực ăn, nhân dân no ấm, được học hành sẽ nghĩ được nhiều cách làm tốt hơn, phát triển được sản xuất, lúc đó nông dân sẽ tự nguyện cùng hợp tác làm ăn, lúc đó hợp tác xã mới có thực chất và vững mạnh. Anh bảo tôi: “Thế thì tốt quá!” Tôi biết anh vẫn còn phân vân với khoán sản phẩm trong nông nghiệp.

Anh Văn Tiến Dũng, anh Chu Huy Mân, hai vị Đại tướng tuy rất bận công việc quân sự, nhưng hai anh hàng năm vẫn xuống Hải Phòng thăm đất cảng làm ăn. Có lần họp Trung ương, anh Văn Tiến Dũng bảo tôi sang sân bay Bạch Mai đi trực thăng với anh về Hải Phòng quan sát hệ thống phòng thủ bờ biển và khai hoang lấn biển của lực lượng vũ trang ở Vinh Quang, Tiên Lãng... Sau đó anh về quân khu 3, hôm sau đi thăm Cát Bà, Cát Hải, thăm một số hợp tác xã nông nghiệp ngoại thành. Anh rất vui về một thành phố công nghiệp đã tự túc được lương thực.

Anh Chu Huy Mân đi thuyền, lội bãi lầy ra thăm bộ đội đào kênh Cái Tráp, cắt ngang huyện Cát Hải, từ Lạch Huyện sang sông Bạch Đằng, rút ngắn hơn 20 km đường thuỷ từ Hồng Gai về Hải Phòng không phải qua sông Chanh, sông Ruột Lợn của Quảng Ninh và Thuỷ Nguyên, rất thuận lợi cho vận tải biển. Hải quân xuất kích ra biển cũng rút ngắn được khá nhiều thời gian. Anh Chu Huy Mân khen những suy nghĩ của lãnh đạo địa phương đã kết hợp kinh tế với quốc phòng rất chặt chẽ, một công đôi việc, tiết kiệm được xăng dầu, thời gian, sau này cảng Hải Phòng mở rộng ra biển thì lại càng có hiệu quả lớn.

Anh Nguyễn Thanh Bình là người luôn luôn suy nghĩ tìm cách cải tiến quản lí kinh tế và luôn luôn ủng hộ cái mới. Anh nhìn nhận vấn đề đổi mới rất nhanh. Anh lúc nào cũng bảo vệ những cán bộ dám nghĩ dám làm, dám khuyến khích động viên họ. Anh thẳng thắn phê bình tư tưởng bảo thủ, chế độ ban ơn, xin, cho, của một số cán bộ lãnh đạo lúc đó. Đối với Hải Phòng đổi mới, coi như anh ủng hộ tuyệt đối. Anh luôn luôn động viên giúp đỡ Hải Phòng đi lên, nhất là khi chuẩn bị làm khoán, có nhiều lực cản ghê gớm. Anh phê phán rất quyết liệt những hành động cản trở nhân tố mới ra đời.

Anh Nguyễn Đức Tâm, nhà tổ chức thận trọng và khiêm tốn. Anh nghiên cứu về cán bộ, hoặc đi thăm những nơi sản xuất, đến các công trình của Hải Phòng. Anh suy nghĩ cách làm, gợi ý nhỏ nhẹ cho địa phương suy nghĩ từng việc cụ thể, để thực hiện cho tốt. Anh làm tổ chức nên rất quan tâm đến quá trình hoạt động của cán bộ. Anh lo cho những cán bộ chủ chốt có được một lí lịch chân thực trong sạch, không còn hiện tượng man khai lí lịch, lừa dối tổ chức để lên chức lên quyền. Đối với cá nhân tôi, tôi biết anh theo dõi và nghiên cứu tiểu sử cá nhân tôi rất kĩ. Nên khi một số người xấu vu khống lí lịch tôi, anh thường đặt đi đặt lại câu hỏi rất nhiều lần với tôi: “Anh phải xem kĩ, đằng sau vấn đề này là vấn đề gì? Chẳng nhẽ hơn một chục cán bộ chủ chốt của Hải Phòng không có thù ghét gì với anh, họ chẳng có một chút chứng cứ gì trong tay, mà dám kí tên tập thể tố cáo anh, tại sao? Cần suy nghĩ tìm ra cho được nguyên nhân”. Tôi phải khất lại để suy nghĩ và tìm hiểu, không thể suy diễn bừa được. Đến ngày 2-8-2003 tôi đã tìm ra nguyên nhân để trả lời câu hỏi khó khăn phức tạp đó.

Tháng 1-2004, tôi gặp anh. Tôi tưởng bây giờ anh đã nghỉ, chắc anh cũng quên việc của tôi. Không ngờ sau những câu chuyện thông thường. Anh lại nghiêm nghị hỏi: “Cái việc anh Tô Duy, anh đã tìm ra cái gì ở đằng sau đó chưa?” Hôm đó tôi báo cáo với anh, tôi đã tìm ra rồi. Đó là anh Đỗ Mười, nguyên Tổng Bí thư của Đảng ta chỉ đạo anh Tô Duy vu khống tôi hơn 20 năm qua. Anh Tâm bảo tôi: “Có thế chứ, vô lí những con người đó tự nhiên lại kí và tố cáo dai dẳng. Khi tổ chức đã kết luận và đã chúng minh đầy đủ họ sai, nhưng họ vẫn làm, vậy phải có nguyên nhân sâu xa. Tôi làm tổ chức tôi hiểu điều đó rất rõ”. Rồi anh thở phào nhẹ nhõm, như vừa trút được một gánh nặng. Tôi báo cáo anh, tôi cũng thấy buồn, tôi không nghĩ con người đó lại là con người như vậy, buồn cho mình, buồn cho Đảng ta.

Anh Đồng Sĩ Nguyên, một nhà hành động thực tiễn. Anh luôn xông pha vào những nơi khó khăn gian khổ, từ tư lệnh Đoàn 559, bí hiệu của Binh đoàn Trường Sơn, phụ trách hàng nghìn km trong rừng sâu. Anh thường giới thiệu với tôi về động Phong Nha - Kẻ Bàng, và bảo tôi giới thiệu với bên ngoài và kêu gọi đầu tư. Tôi đã giới thiệu với khách nước ngoài về “Động” nổi tiếng của Việt Nam.

Tháng 6-2004 trong dịp vào dự Festival Huế, tôi đã đi thăm những nơi anh giới thiệu, như động Phong Nha - Kẻ Bàng, Nghĩa trang Trường Sơn, Mười cô gái ngã ba Đồng Lộc và đường Hồ Chí Minh đang xây dựng. Tôi đã đi hơn 200 km đường Hồ Chí Minh từ Quảng Trị - Quảng Bình - Hà Tĩnh, tôi lại suy ngẫm về con người anh Đồng Sĩ Nguyên, tuy tuổi già, vẫn nhận làm phái viên Chính phủ, chỉ đạo và làm cố vấn cho các công trình. Khi còn là Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng, Bộ Trưởng Bộ Giao thông anh thường về Hải Phòng làm việc với tôi. Anh em ý hợp tâm đầu, công việc bàn xong là quyết, là làm, không bàn đi bàn lại vòng vo mất thì giờ. Khi giải quyết công việc của Cảng, mở rộng đường 5, đường xuyên đảo Đình Vũ, đào kênh Cái Tráp... bàn đến đâu chúng tôi nhất trí với nhau rất nhanh và bắt tay vào việc.

Tôi biết anh khi anh là Phó Tổng Tham mưu trưởng, từ những năm 1964-1965, anh về bàn với Hải Phòng chuẩn bị mọi điều kiện chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc. Từ đó cho đến sau này lên Trung ương làm việc với anh trong Thường Vụ Hội đồng Bộ trưởng, tôi thấy lúc nào anh cũng năng nổ, bàn hết việc này đến việc khác, suy nghĩ cách làm cho có hiệu quả. Có đồng chí nói anh Đồng Sĩ Nguyên thuộc phái bảo thủ. Nhưng anh làm việc với tôi, cho đến hôm nay, tôi vẫn thấy anh là người hành động, ít bàn lí sự dông dài. Còn tôi ở Hải Phòng là một trong những địa phương đổi mới sớm nhất, những vấn đề như khoán trong nông nghiệp, bỏ tem phiếu, xoá bỏ chế độ bán gia cầm, lợn cho nông dân... tôi trao đổi với anh, anh rất đồng tình. Anh còn nói nông dân khổ lắm. Kháng chiến, hầu hết là nông dân ra trận. Vợ con ở nhà làm ruộng đóng góp lúa gạo cho chiến trường, hai sương một nắng khổ lắm! Nay bớt cho bà con thứ nào hay thứ đó. Nhưng anh có suy nghĩ kĩ, anh hỏi lại tôi: “Thế ông Thành đã nghĩ lấy gì cho bộ đội ăn chưa?”. Tôi đã phân tích về cách giải quyết cái ăn, cái mặc cho lực lượng võ trang và cán bộ công nhân viên. Anh nghe xong nói ngay: “Thế thì tôi giơ cả hai tay ủng hộ ông”. Rồi “khịt, khịt” vài ba cái, anh nói: “Ông nghĩ hay đấy, làm đi”. Tôi chưa thấy một lời nói, một việc làm “bảo thủ” của anh với tôi cả. Đến nay con người hành động Đồng Sĩ Nguyên vẫn đi bộ dọc Trường Sơn, để chỉ đạo một con đường dài hơn 2500 km, xuyên Việt. Tất nhiên đã có đường nhựa bóng lộn, chẳng nhẽ lại không đi ô tô. Tôi đã đi trên 200 km nhựa bê tông bóng loáng, một còn đường dài nhất xuyên qua Trường Sơn Đông-Trường Sơn Tây mang tên Bác. Tôi đi trên đoạn đường hơn 200 km, chỉ mong gặp anh Đồng Sĩ Nguyên để nói một câu: “Anh đã để lại dấu chân anh trên dọc con đường này trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Nay dấu chân anh để lại trên con đường nhựa dài suốt từ Việc Bắc đến đồng bằng Nam Bộ, đến Năm Căn, Cà Mau”. Xây dựng con đường này đã kết hợp kinh tế với quốc phòng, nhất là du lịch, rất hay. Tôi mới “cưỡi ngựa xem hoa” nhưng thấy những nhánh đường rẽ vào nghĩa trang Trường Sơn, vào Phong Nha - Kẻ Bàng rồi ra ngã ba Đồng Lộc, nói rõ nét ý tưởng của nhà hoạch định ra con đường huyền thoại này. Đi một đoạn đường ngắn mà thấy mình trẻ lại. Chỉ có điều là đường còn hẹp, nhiều đoạn không bắc cầu qua suối, đường phải uốn theo sườn núi ngoằn ngoèo, khúc khuỷu, làm cho tốc độ xe bị giảm nhiều.

Các anh Hoàng Tùng, Vũ Oanh, Nguyễn Quyết, Lê Quang Đạo. Khi ấy các anh là Uỷ viên Ban Bí thư, các anh là những người đầu tiên ủng hộ khoán trong nông nghiệp. Anh Hoàng Tùng lúc đó là Trưởng Ban tuyên huấn, anh luôn đưa những nhà báo ủng hộ khoán như: Hữu Thọ, Lê Điền, Thái Duy... theo sát tình hình Hải Phòng và có những bài báo đấu tranh nảy lửa trên báo chí để ủng hộ khoán. Anh Hoàng Tùng mỗi khi về Hải Phòng, thường bàn với anh Bùi Quang Tạo và tôi những cách xử sự của Trung ương, để làm cơ sở mở rộng khoán ra cả nước. Anh tha thiết với phong trào Hải Phòng về cả lí trí và tình cảm. Con người đã 2 lần làm Bí thư Thành uỷ Hải Phòng, mặc dù mỗi lần vài ba tháng trong những năm đầu cách mạng tháng 8 mới thành công. Đến nay anh Hoàng Tùng còn để lại nhiều kỉ niệm với Đảng bộ và nhân dân Hải Phòng.

Anh Vũ Oanh, tôi đã nói ở chương trước, anh say mê với đổi mới của Hải Phòng, nhất là nông nghiệp. Khi anh làm Trưởng Ban Nông nghiệp Trung ương, anh thường xuyên xuống Hải Phòng rút kinh nghiệm và góp nhiều ý kiến cho địa phương. Một tầm nhìn xa và tiên đoán sớm của anh là: “Khoán sản phẩm trong nông nghiệp là chìa khoá vàng.”. Nay nó không phải là chìa khoá nữa mà là “kho vàng”. Anh Nguyễn Quyết, khi anh là Tư lệnh, Chính uỷ quân khu 3, anh đã cùng Đảng uỷ quân khu đề ra phong trào “Làm giàu đánh thắng”, đã góp sức toàn quân cùng các địa phương khai hoang lấn biển, mở rộng địa bàn, bảo vệ miền duyên hải. Anh rất quan tâm giúp đỡ địa phương, bất cứ lúc nào Hải Phòng yêu cầu cái gì là Quân khu ủng hộ ngay, từ lực lượng lao động, đến phương tiện vận tải mà quân khu có. Anh đã đóng góp cho Hải Phòng trong những công trình lớn như đắp đê đường 14 Đồ Sơn, đường xuyên đảo, đào kênh Cái Tráp. Anh là nhà quân sự kì cựu, một vị Đại tướng, nhưng nhìn về kinh tế anh cũng có cái nhìn sắc sảo. Phải có kinh tế mạnh mới có quốc phòng mạnh. Khi làm Tư lệnh Quân khu, trong điều kiện kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn, anh đã huy động quân đội làm kinh tế để bổ sung bữa cơm, cho chiến sĩ có lương thực, thực phẩm khá hơn, doanh trại xây dựng khang trang hơn, từng bước góp phần cải thiện đời sống cho lực lượng vũ trang, không chỉ trong quân khu mà cả nước.

Anh Lê Quang Đạo, anh theo sát tình hình khoán Hải Phòng chặt chẽ để ủng hộ, nhưng có nhiều lo lắng. Trong các cuộc họp Quốc hội, hễ anh gặp tôi là hỏi kết quả khoán ra sao? Trên Trung ương lắm ý kiến khác nhau lắm, anh thường thông tin cho tôi biết những ý kiến trái chiều để đề phòng. Anh hỏi thăm ý kiến các đồng chí chủ chốt trong Bộ Chính trị ra sao, nhất là ý kiến anh Trường Chinh. Anh lo ngại ở cái “post” đó. Hình như trước đây đã có thời kì anh làm Thư kí cho anh Trường Chinh thì phải (?). Tôi thấy anh biết rất chi tiết về tính tình và phong cách làm việc của anh Trường Chinh. Anh khuyên tôi phải lay chuyển được cái “post” quan trọng đó thì khoán mới thành công trong cả nước. Nếu không chỉ “khoán chui” thì kinh tế khó khăn vẫn y nguyên. Anh Lê Quang Đạo là con người cẩn thận, anh mỗi lần nói anh lại nhắc tôi: “Tôi chỉ thông tin cho anh biết thôi nhé, để chọn lựa cách làm việc cho kết quả”. Tôi hiểu ý anh.

Ngoài các anh tôi đã nhớ được, tôi nêu ở chương này, còn biết bao nhiêu đồng chí Uỷ viên Trung ương khác, như: đồng chí Hồ Nghinh, đồng chí Vũ Quang, đồng chí Trương Kiện... đã hết lòng ủng hộ Hải Phòng, để Hải Phòng bứt ra khỏi cơ chế kế hoạch hoá, tập trung bao cấp. Tôi rất biết ơn các anh vì sự nghiệp chung của đất nước. Có anh còn lo cho cả cá nhân tôi. Nếu khoán trong nông nghiệp không thành thì sao? Đó là những tấm lòng vì đất nước, vì tình đồng chí, thân thương, cùng nhau phấn đấu cho một Việt Nam giàu có, bảo đảm cho hôm nay và mãi mãi mai sau phải là: dân giàu, nước mạnh, ấm no, hạnh phúc.

(còn tiếp)
0 Response to 'Chương 10 - Hồi Ký Đoàn Duy Thành'