Free Website Hosting

Chương 9
Con cá nó sống vì nước
- Chủ tịch phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI)
sống vì doanh nghiệp
Thuở nhỏ, trước năm 1945, thỉnh thoảng tôi theo bố mẹ đi xem hội, vào một số đình chùa. Tôi gặp từng đám người nghèo khổ phải đi ăn mày, ăn xin khách thập phương đến lễ hội. Người thì mù loà, người thì tàng tật, khố rách áo ôm, tay xách con, tay lạy van: “Lạy ông đi qua, lạy bà đi lại, cứu vớt chúng con. Con cá nó sống vì nước, con sống vì ông, vì bà...”. Cứ thế mà kêu xin. Câu “Con cá nó sống vì nước, con sống vì ông, vì bà”, cứ hằn sâu trong đầu tôi cho đến ngày sang làm Chủ tịch Phòng Thương mại trong một thế đứng không còn “tấc đất cắm dùi”, nói theo nghĩa bóng về hoàn cảnh tôi lúc đó.

Khi về Bộ Ngoại thương, nhập vào Bộ kinh tế đối ngoại, chẳng được bao lâu, lại nhập tiếp. Tôi sang làm Viện trương Viện Quản lí kinh tế Trung ương, đồng chí Cao Văn, quyền Chủ tịch UBND Thành phố Hải Phòng và một số anh chị em đồng chí thân thiết đến chơi, và nói: “Đến Vụ, Viện là đến ngõ cụt rồi...”. Đó cũng là câu cửa miệng của mọi người: “Xuống đến chức Vụ, Viện là về vườn”. Tưởng đó là câu chuyện chia sẻ tấm lòng cho người cùng đường, để khuây khoả nỗi lòng người tri kỉ, nhưng hoá ra thật. Tôi làm Viện trưởng Quản lí kinh tế Trung ương đang say sưa với công việc, sắp xếp bộ máy đi vào làm ăn, chuẩn bị dự án xây dựng một Viện quản lí kinh tế quốc gia, cả về qui mô xây dựng và nội dung nghiên cứu, nhưng chỉ được 19 tháng 20 ngày thì có quyết định sáp nhập vào Bộ Kế hoạch đầu tư. Từ một Viện ngang Bộ, trực thuộc Chính phủ, nay xếp ngang một Tổng cục trực thuộc Bộ, đương nhiên Viện trưởng phải đi nơi khác hoặc về nghỉ... “hết đất”.

Tôi bàn giao công việc với đồng chí Đỗ Quốc Sam, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch đầu tư và liên hoan hợp nhất vui vẻ cùng anh chị em trong Viện. Nhưng trong tâm tư lại thêm một nỗi buồn ghi trong kí ức, như bao cuộc phải chuyển công tác trong đời, từ địa phương lên đến trung ương. Nhớ lại những cuộc tiễn đưa, khi tôi từ Giám đốc Sở Thương nghiệp Hải Phòng lên làm Phó chủ tịch UBND thành phố, anh em tiễn tôi cùng nước mắt lưng tròng. Khi tôi rời ghế Bộ trưởng Bộ kinh tế đối ngoại, cán bộ công nhân viên đứng trên gác, dưới nhà, vẫy tay chào tôi rưng rưng nước mắt... Không hiểu họ nghĩ điều gì khi Bộ trưởng phải ra đi mà họ khóc?

Sau mấy ngày tôi được đồng chí Nguyễn Đức Tâm rồi đồng chí Võ Văn Kiệt mời lên giao nhiệm vụ mới - Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI).

Khi gặp đồng chí Nguyễn Đức Tâm, tôi đề nghị đưa đồng chí Tạ Cả, Thứ trưởng Thường trực sang làm Chủ tịch VCCI. Anh Tâm nói: “Phòng tách ra khỏi Bộ Thương mại, trực thuộc Trung ương. Là một tổ chức mới, có quan hệ quốc tế rộng lớn, anh nên nhận cho...”

Cũng như lần sang làm Viện trưởng, tôi đề nghị anh tìm cán bộ sở tại, nếu anh Tạ Cả không làm được. Anh Tâm nói ngay: “Tại chỗ làm sao có người?”. Tôi đề nghị anh xem các đồng chí các ngành trung ương có ai thích hợp thì điều về, nếu không có ai, đề nghị anh cho tôi suy nghĩ ít ngày và xem anh em ở Phòng họ có ưng tôi về đó không...

Mấy hôm sau anh Võ Văn Kiệt lại nhắc tôi về sớm để chuẩn bị Đại hội lần thứ II, tách Phòng ra khỏi Bộ Thương mại. Các đồng chí Đoàn Ngọc Bông, Phạm Chi Lan, Tổng Thư kí và Phó Tổng thư kí, chủ động đến nhà tôi báo cáo và xin ý kiến về tổ chức Đại hội.

Tôi vốn là Bộ trưởng Bộ Ngoại thương, đối với anh chị em Phòng Thương mại tôi đều quen biết, chỉ hiềm một nỗi mình xuống cấp lại chèn ép anh chị em, họ không có điều kiện thăng tiến, về tâm lí mà nói, chắc anh chị em cũng có suy nghĩ. Nên tôi rất do dự. Có đồng chí nghĩ tôi cho “Phòng” là bé nhỏ, thực sự nó chỉ là cấp Vụ. Cán bộ Bộ Ngoại thương còn đánh giá “Phòng” là “cái đuôi” của Vụ II (Vụ phụ trách thị trường các nước tư bản).

Tôi thì nghĩ khác. Dù to hay bé tôi không quan tâm, miễn là nơi đó không ai thích và không muốn làm, không có tranh chấp quyền lực. Càng khó tôi càng thích làm, để thử nghiệm khả năng của mình.

Hôm gặp đồng chí Cao Văn, tôi bảo: “Vụ, Viện chưa phải đã là kết thúc, “Trưởng phòng” mới là tột cùng”. Đồng chí Cao Văn nói từ Phó Thủ tướng xuống làm Trưởng phòng, mà vẫn làm được việc mới hay chứ! Tôi đi nhiều nơi họ cũng giới thiệu tôi là Trưởng phòng... Tôi nghĩ lại câu của người ăn xin: “Con cá nó sống vì nước, con sống vì ông, vì bà”. Tôi lấy làm tâm đắc, nhưng sửa lại: “Con cá nó sống vì nước, Chủ tịch sống vì doanh nghiệp”. Có doanh nghiệp thì Chủ tịch VCCI mới có chỗ sống. Chủ tịch VCCI sống, thì phải làm vì doanh nghiệp.

Tổ chức Đại hội lần thứ II xong, tôi được bầu làm chủ tịch VCCI. Khi đến nhận nhiệm vụ tại 33 Bà Triệu, với cái nhà cổ kính, là một trong bốn ngôi nhà cổ kính nhất Hà Nội được bảo tồn. Có 600 m2 nhà sử dụng cho 3 cơ quan của Bộ ở chung. Sau VCCI đền bù cho hai cơ quan khác chuyển đi, chỉ còn một cơ quan ở lại là VCCI. Nhưng cũng quá chật, Chủ tịch VCCI chỉ làm việc trong một phòng 10 m2, gần bên hố xí tập thể. Nhà văn Trần Bạch Đằng đến chơi bảo: “Chủ tịch VCCI chỗ làm việc như thế này không chấp nhận được”. Tôi trả lời: “Anh Tư ạ, anh là nhà nho, tôi cũng là nhà nho, anh nhớ Khổng Tử đã nói: Quân tử cố cùng...”. Anh Trần Bạch Đằng nói ngay: “Tiểu nhân cùng tư lạm hĩ”. Cả hai chúng tôi cùng cười. Tôi nói: “Anh Tư nhớ nhé! Khi tôi có phòng làm rộng và sang, anh đừng chê tôi nhé!”, anh Trần Bạch Đặng gật gật: “Không chê mà còn khen nữa”.

Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trực thuộc lãnh đạo của Trung ương Đảng và Chính phủ. Danh nghĩa bên ngoài là Tổ chức phi chính phủ (NGO), nhưng đặc biệt là VCCI tự lo liệu về ngân sách, không ăn lương của ngân sách Nhà nước, do đó đối với bên ngoài họ mới cho mình đúng là Tổ chức NGO của Việt Nam. Khi tôi nhận quyết định về công tác ở VCCI, tôi đã hình dung 3 việc lớn phải làm:
1/ Xây dựng cơ chế cho Phòng mà điều quan trọng nhất là xây dựng Điều lệ của Phòng, thông qua Đại hội và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Đồng thời xây dựng bộ máy phù hợp với qui mô, chức năng, nhiệm vụ của Phòng đúng với điều lệ được duyệt.

2/ Xây dựng cơ sở vật chất cho Phòng, đó là cơ sở cho chủ nghĩa xã hội được thực hiện ở Phòng, đồng thời bảo đảm ngân sách của Phòng được ổn định, từng bước đi lên một cách vững bền.

3/ Phải xác lập cho được vai trò của doanh nghiệp trong xã hội, là lực lượng nòng cốt trong việc xây dựng nền kinh tế đất nước, bảo đảm cho mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của Đảng được vững chắc.

Để rút kinh nghiệm của các Phòng Thương mại và Công nghiệp thế giới, tháng 7-1993 tôi đi thăm Thái Lan và Singapore một tuần. Các bạn hoạt động đa dạng, phong phú, tổ chức nhiều loại hình khác nhau, nhằm thu hút nhiều doanh nghiệp vào tổ chức của mình. Có nước có nhiều phòng, nhiều hội, nhiều hiệp hội phi chính phủ. Sau kết hợp đi họp, đi hội thảo, đi làm việc, tôi đã nghiên cứu một số nước đã có Phòng Thương mại từ lâu đời như Nhật Bản, Pháp. Đặc biệt ở Pháp, Phòng Thương mại đã có cách đây 400 năm. Napoleon đã có sắc lệnh về Phòng Thương mại Pháp cách đây khoảng 200 năm, Phòng Thương mại quản lí nhiều trường đại học kinh tế thương mại nổi tiếng, kinh doanh cả hàng không và nhiều lĩnh vực khác.

Còn kết nạp hội viên, nơi thì tự nguyện, nơi thì bắt buộc. Như ở Pháp, sau khi được cấp giấy phép kinh doanh, doanh nghiệp phải đến phòng thương mại sở tại xin làm hội viên, do sắc lệnh về phòng thương mại qui định.

Đó là những việc làm của bạn, nước phát triển đã có hàng triệu doanh nghiệp. Ở Pháp và Nhật khoảng 20 người dân có một doanh nghiệp. Mỹ 10 người dân có một doanh nghiệp. Còn Việt Nam, những năm đầu thập kỉ 90, chưa có luật doanh nghiệp, khoảng 3.000 người dân mới có một doanh nghiệp. Nền kinh tế Việt Nam tuy có tăng trưởng, nhưng lực lượng làm cho kinh tế tăng trưởng với khối lượng quá nhỏ bé. GDP tính theo đầu người của họ đã là hàng vạn đô la Mỹ. Còn ta mới có vài ba trăm đô la. Đó là điều tôi trăn trở lo lắng cho sự phát triển của đất nước. Trong lúc nước ta thực hiện kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhưng tư duy về phát triển doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân còn có nhiều điều khác nhau. Nhiều người nhìn doanh nghiệp tư nhân với con mắt canh chừng, thành kiến, cho doanh nhân nói chung như những người ăn xài xa xỉ, ném tiền qua cửa sổ, trai gái, rượu chè... Ta có biết đâu họ đang tiết kiệm từng đồng để có vốn xây dựng xí nghiệp, công ti, nhất là doanh nghiệp tư doanh. Tất nhiên cũng có một số ít doanh nhân hư đốn, “Con sâu bỏ rầu nồi canh”, đối với những người này ta không chú ý giáo dục uốn nắn cho họ, mà có xu hướng muốn phơi bày trên báo chương.

Chúng ta không thấy rằng nước ta nghèo, nhân dân ta không có kinh nghiệm kinh doanh, làm giàu, bằng của nả của ông cha ta để lại. Đã nghèo, văn hoá lại thấp thì vừa không biết làm giàu, vừa hay ghen tị với những người khá giả hơn mình. Kinh nghiệm khi công tác ở địa phương, tôi thấy những cảnh như nhà hàng xóm nuôi được cá, chăn nuôi gà vịt sinh trưởng tốt, người hàng xóm không làm được, khó chịu, vứt thuốc sâu xuống ao và gà bị bệnh sang nhà hàng xóm, làm cho cá chết, gà “toi” mới thoả lòng. Khi lên Hà Nội, giữa những thập kỉ 80, tôi còn được nghe kể rằng ở trên này nhà mua được con gà làm thịt cũng phải gói lông lại, chặt thịt không dám dùng dao, thớt, mà phải dùng kéo cắt. Thịt ăn xong, xương và lông gà gói lại đem ra ngoài đê sông Hồng vứt đi, sợ người hàng xóm nhìn thấy. Đó là sự thật, chúng ta phải đi lên từ cuộc sống khó khăn của nhân dân sau bao năm chiến tranh, lại thực hiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, tem phiếu kê khai phiền toái, hàng hoá không có, chia nhau mua từng bao diêm, sợi chỉ... Nó bị vật chất tác động vào tư tưởng, và tư tưởng đố kị ghen tị lặt vặt không thể tránh khỏi. Người lãnh đạo phải từng bước tìm ra phương pháp khắc phục.

Xác lập vai trò doanh nghiệp, doanh nhân trong xã hội

Từ những tình hình trên, với cương vị Chủ tịch VCCI, tôi từng bước đưa vấn đề này ra bàn bạc trong lãnh đạo VCCI, xác định rõ vai trò, chức năng, nhiệm vụ của VCCI là đại diện cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, bảo vệ quyền lợi cho họ, kết hợp với các Bộ, ngành, địa phương, để tổ chức, xây dựng, đào tạo doanh nghiệp... tiến tới phát triển doanh nghiệp lớn mạnh, làm lực lượng chủ yếu trong phát triển kinh tế đất nước.

Để làm rõ vấn đề này tôi đã viết nhiều bài báo với nhiều nội dung khác nhau, nhưng đều nhằm làm cho xã hội nhận thức, đánh giá đúng vai trò doanh nghiệp. Tôi đã có các bài: “Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa”; “Làm thế nào để dân giàu, nước mạnh...” đăng trên báo Nhân Dân, báo Diễn đàn doanh nghiệp và nhiều tờ báo khác.

Để có sự xoay chuyển mạnh về tư duy, nhận thức xã hội đối với doanh nghiệp, tôi đã đề nghị với Thủ tướng Võ Văn Kiệt có cuộc gặp gỡ thân mật, đối thoại với doanh nghiệp.

Được Thủ tướng đồng ý, ngày 8-2-1995, lần đầu tiên giới doanh nghiệp được gặp mặt thân mật, trao đổi ý kiến thẳng thắn, dân chủ với Thủ tướng. Các doanh nghiệp rất phấn khởi. Thủ tướng cũng nắm được tâm tư nguyện vọng của doanh nghiệp, đã giải quyết kịp thời một số mắc mớ lớn với doanh nghiệp, làm cho không khí hồ hởi cởi mở giữa doanh nghiệp với Thủ tướng, với các Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan có quan hệ sống còn đến sự phát triển kinh tế đất nước, đến quyền lợi của công nhân, giám đốc xí nghiệp, công ti.

Qua các năm sau, đầu Xuân vẫn có những cuộc gặp giữa Thủ tướng và doanh nghiệp. Nhưng vì bận nhiều công việc, nên Thủ tướng Võ Văn Kiệt uỷ nhiệm các Phó Thủ tướng thay. Từ năm 1997, khi Thủ tướng Phan Văn Khải nhận nhiệm vụ, năm nào Thủ tướng Phan Văn Khải cũng gặp doanh nhân. Đồng chí Phan Văn Khải thường tâm sự với tôi là: “Đời tôi quan tâm đến hai việc lớn nhất là: phục vụ doanh nghiệp để phát triển doanh nghiệp và xoá đói, nghèo”. Thủ tướng, các Bộ ngành quản lí đã cùng quan lâm vai trò của doanh nghiệp, doanh nhân, các thành phần được đề cao, có vai trò trong xã hội, bớt dần những nhận thức không đúng về doanh nghiệp. Để tạo cơ sở pháp lí vững chắc cho phát triển doanh nghiệp, Nhà nước cần phải có một luật cho doanh nghiệp. VCCI đã cùng các ngành, dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, Chính phủ, đề xuất với Quốc hội ra một luật về doanh nghiệp. VCCI đã cử hai Phó Chủ tịch là Phạm Chi Lan và Vũ Tiến Lộc, cùng Trưởng ban pháp chế Trần Hữu Huỳnh cùng nhiều chuyên viên, cán bộ, tham gia vào chương trình soạn thảo luật doanh nghiệp. Hội đồng cố vấn của Phòng cùng tham gia tích cực như ông Vũ Quốc Tuấn, ông Nguyễn Văn Trọng, ông Lê Văn Châu, ông Năm Nghị, bà Nguyễn Thị Hiền v.v... đã tham gia tích cực vào việc soạn thảo luật doanh nghiệp. Còn tôi đã có một số buổi đến báo cáo với Ban Thường vụ Quốc hội và các Uỷ ban của Quốc hội về vấn đề doanh nghiệp, tham gia vào Tiểu ban chuẩn bị Nghị quyết Trung ương lần thứ 5 khoá 9 về phát triển kinh tế tư nhân, v.v...

Khi trong Đảng, cũng như ngoài nhân dân đã thấy rõ tầm quan trọng của doanh nghiệp, Quốc hội đã thảo luận và thông qua luật doanh nghiệp với số phiếu ưng thuận rất cao, đánh dấu một bước ngoặt về phát triển doanh nghiệp, phát triển kinh tế của nước ta, góp phần rất quan trọng vào những năm khủng hoảng kinh tế khu vực Đông Á và Nam Á, giữ được tốc độ tăng trưởng trên dưới 7%. Trong khi các nước bạn, có nước mức tăng trưởng “âm”.

Kể từ năm 2000 số lượng doanh nghiệp mới đăng kí liên tục tăng nhanh với tốc độ chưa từng thấy. Cho đến tháng 9-2003 đã có 72.601 doanh nghiệp mới đăng kí (trong 9 năm 1991 - 1999 có 45.000 doanh nghiệp đăng kí), đưa tổng số doanh nghiệp đăng kí của khu vực tư nhân ở nước ta lên khoảng 120 ngàn doanh nghiệp. Số doanh nghiệp đăng kí trung bình hàng năm hiện nay bằng 3,75 lần so với trung bình hàng năm của thời kì 1991 -1999. Số doanh nghiệp mới đăng kí trong 4 năm (2000- 2003) ước cao gấp 2 lần so với 9 năm trước đây (1991 - 1999).

Thông qua hoạt động của mình, đặc biệt là hoạt động hợp tác với các Bộ, ngành, chính quyền địa phương, các hiệp hội doanh nghiệp và các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp khác, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam đã chú trọng tuyên truyền và khuyến khích tinh thần kinh doanh, tinh thần doanh nghiệp trong xã hội, khuyến khích và cổ vũ phong trào làm giàu, phong trào khởi sự doanh nghiệp. Chương trình “Khởi sự doanh nghiệp” được VCCI triển khai từ năm 1998 với sự hỗ trợ của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và Cơ quan hợp tác Phát triển Thuỵ Điển (SIDA), đã thu được kết quả khả quan. Chương trình đã phát triển được 252 tổ chức đối tác tại 42 tỉnh, thành phố, tổ chức đào tạo được 15.339 doanh nghiệp về kiến thức khởi sự và phát triển doanh nghiệp. Bên cạnh đó, chương trình còn tạo ra 3.000 việc làm chính thức và 6.000 việc làm thời vụ cho doanh nhân và học viên tham gia chương trình. Điều quan trọng là thông qua các khoá đào tạo và tư vấn của chương trình, đã lạo được phong trào lập nghiệp bằng kinh doanh và khuyến khích nhân dân bỏ vốn đầu tư kinh doanh, đóng góp vào việc xoá đỏi giảm nghèo và phát triển kinh tế địa phương.

Trường cán bộ quản lí doanh nghiệp của VCCI mới thành lập được 5 năm (19992004) đã:

-Đào tạo tin học cho 5.150 học viên
-Đào tạo ngoại ngữ cho 2.783 học viên
-Đào tạo kinh tế quản trị 6.782 học viên
-Hợp tác đào tạo cho 1.581 học viên (từ cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ).

Hàng năm VCCI còn phối hợp với các ngành, các cấp, các trường... mở các lớp dài hạn, ngắn hạn, hoặc gửi ra nước ngoài đào tạo. Mỗi năm hàng chục ngàn doanh nhân được đào tạo theo phương pháp này.

Các hoạt động trên của Phòng có ý nghĩa là những bước chuẩn bị quan trọng về nhận thức và tâm lí xã hội cho sự ra đời và đi vào thực tiễn của Luật doanh nghiệp.

Để góp phần vào nhận thức kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong khi chờ đợi những tác phẩm lớn của các nhà lí luận và thực tiễn, tôi viết 4 tiểu luận để giúp các nhà doanh nghiệp và những ai quan tâm đến sự phát triển kinh tế của đất nước trong giai đoạn khó khăn phức tạp này, để họ nghiên cứu tham khảo, giúp cho người quản lí và người thực hiện cùng nhau góp sức vạch ra con đường tiến lên CNXH ở Việt Nam, từ một nước nông nghiệp đi lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thực hiện mục liêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh.

Đó là 4 tiểu luận:

- “Những nguyên tắc vận hành cơ chế thị trường ở Việt Nam”;

- “Làm thế nào để thực hiện được mục liêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”;

- “Vai trò then chốt của doanh nghiệp Nhà nước”;

- “Đảng lãnh đạo kinh tế, đảng viên làm kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.

Bốn tác phẩm trên đã được nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản hàng vạn cuốn, để các doanh nghiệp, doanh nhân, các nhà nghiên cứu và độc giả ưa thích tìm đọc.

Những tác phẩm này về mặt lí luận thì không lớn, nhưng về thực tiễn đã giúp cho người đọc yên tâm, tin tưởng vào đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước để vững bước đi lên, làm giàu cho nhà, cho nước.

Để làm rõ vai trò vị trí xã hội của doanh nghiệp, VCCI đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo về chủ đề này ở Trung ương và các địa phương, tổ chức gặp gỡ đối thoại với các ngành liên quan như: công an, tài chính, ngân hàng, hải quan, thuế vụ v.v...

Những cuộc gặp gỡ, hội thảo, đối thoại trên đã giúp cho Doanh nghiệp thấy được những khuyết điểm tồn tại của mình. Đồng thời làm rõ được vai trò cực kì quan trọng của doanh nghiệp đối với sự phát triển kinh tế, phát triển xã hội, thấy rõ doanh nghiệp, doanh nhân là con đẻ của xã hội, mọi người có trách nhiệm bảo vệ, giúp đỡ nó, cùng với doanh nghiệp, doanh nhân và toàn xã hội là một mặt trận tiến công xoá đói giảm nghèo, xây dựng đất nước giàu về vật chất, giàu về tinh thần, về văn hoá. Như vậy hiện nay đã giảm bỏ rất nhiều rào cản gây khó khăn cho doanh nghiệp.

Để kinh doanh, buôn bán, sản xuất văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa, không thể chỉ dựa vào kiến thức học tập của doanh nhân, công nhân viên chức tại trường, mà cần bổ sung những kiến thức, văn hoá bắt nguồn từ cội rễ dân tộc, kết hợp với văn hoá, văn minh thời đại. VCCI đã thành lập Trung tâm văn hoá doanh nhân để bổ sung cho mặt còn hẫng hụt của doanh nghiệp, doanh nhân.

Như sách kinh điển cách đây 5.000 năm, Kinh Thi đã nói: “Văn chất bân bân, nhiên hậu quân tử” (văn hoá và vật chất đầy đủ sẽ có người tử tê). Nếu chỉ có vật chất thôi thì con người mới thực có một nửa của mình. Đó là phần “con”. Còn phần “người” tức là ý thức, tư tưởng chỉ đạo cho phần “con” hành động, phần “người” phải được học tập, trao dồi những ý tưởng cao đẹp mà tổ tiên đã chắt lọc hàng bao thế kỉ mới có được, cộng với những nền văn hoá các nước, được hội tụ qua lựa chọn nghiêm túc, từ bên ngoài bổ sung cho nền văn hoá Việt Nam luôn luôn phong phú và hiện đại, làm cho “con người” hoàn chỉnh cả về vật chất và tinh thần, để người Việt Nam làm gì, ở đâu cũng không bị lạc hậu với thế giới. Con người Việt Nam luôn luôn thể hiện đạo đức, lương tri của loài người ở tầm cao.

Luật doanh nghiệp đã xác định vai trò vị trí của doanh nghiệp và doanh nhân. Tầng lớp doanh nhân có vị trí xứng đáng, góp phần cực kì quan trọng vào việc xây dựng đất nước. Tôi đã nhiều lần viết thành văn bản gửi lên Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, đưa doanh nhân vào trong 4 giai tầng chủ yếu trong xã hội là: “Công, nông, trí, doanh nhân”, vấn đề này đang được bàn bạc nghiêm túc trong Trung ương Đảng và các ngành, các cấp với những tin tức đáng mừng: thuận nhiều hơn nghịch...

Hai tờ báo và tạp chí: Diễn đàn Doanh nghiệpVIB Forum, mỗi tuần mỗi tờ ra 4 kì, là những người bạn thân thiết của doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, là cẩm nang hành nghề, người bạn đường không thể thiếu của doanh nhân. Tất cả là để gắn Luật doanh nghiệp với doanh nhân, tiếp tục phát hiện những điều cần bổ sung và khắc phục khi thực hiện Luật doanh nghiệp.

Xây dựng cơ sở vật chất cho VCCI thực hiện xây dựng CNXH tại chỗ

Từ thủa thiếu thời, khi tham gia cách mạng, công tác 5 năm ở quê tôi Hải Dương, Kim Thành, 36 năm công tác ở Hải Phòng, rồi lên Trung ương, tôi luôn luôn nghĩ nước Việt Nam ta nghèo quá. Được giác ngộ cách mạng, làm việc và hiểu dần, tôi càng thấy thấm thía về ý chí tự lực lự cường của Bác Hồ. Tôi tự liên hệ với bản thân, đã luôn tự làm để sống, không ỷ lại. Sau này được đào tạo, học tập qua sách vở, và đi tham quan học hỏi ở bên ngoài, tôi thấy ở Việt Nam thiếu một vế “hành”, nặng về học văn tự đơn thuần, khi bước vào thực tế đời sống dễ bị động, dựa dẫm, theo lối công chức. Ngay trong gia đình tôi, từ cụ Đốc Khảm, cụ Khoá Thản, đến bố tôi cũng vậy, đều theo học thuyết Nho giáo. Những gì cụ Tán Thuật, cụ Cử Đức để lại như: học để hiểu để dạy học và làm thuốc, cứu dân độ thế là rất hay, nhưng khâu phát triển xã hội bằng kinh tế, các cụ hình như không nhắc tới, coi như: “Trời sinh voi, trời sinh cỏ”, hoặc “Đời cua, cua máy; đời cáy, cáy đào”. Các cụ ít chú ý đến “Toán, lí, hoá”, chỉ tập trung vào văn chương. Khi Pháp sang chiếm đóng nước ta; con em, những tầng lớp khá giả cũng chỉ học và thi vào các trường luật để ra làm quan, trường y để làm bác sĩ chữa bệnh, hoặc sư phạm, văn chương, lịch sử để đi dạy học. Còn các ngành nông nghiệp, công nghệ thực hành, ít ai nhập học. Những ngành quan trọng: cơ khí chế tạo, giao thông vận tải, hoá, vật lí... thì “mẫu quốc” (đế quốc Pháp) giữ kín, chỉ mở trường ở chính quốc. Chỉ một số người có ý chí, có tiền, thông minh, mới bén mảng sang chính quốc để thụ giáo. Nên tôi suy nghĩ rất nhiều, và nay vẫn tiếp tục suy nghĩ. Chúng ta giáo dục còn hạn hẹp, giáo điều, nghèo, lại không quan tâm dạy lí thuyết phát triển và thực hành trong các trường lớp.

Tư tưởng tiến công đã yếu, lí thuyết phát triển, lí luận cơ bản phần nhiều chỉ học “chay”. Bởi vậy cán bộ ta người khá về lí luận thì tổ chức thực hiện kém, người khá tổ chức thực hiện lại không hiểu lí luận. Có thể nói việc tổ chức thực hiện rất “tù mù”, không theo một tư duy hệ thống nhất định, nên kết quả hạn hẹp, lãng phí nhiều. Khi buông lỏng quản lí thì tham nhũng tràn lan.

Do đó, khi tôi về phụ trách VCCI, cũng xuất phát từ kinh nghiệm đã làm ở Hải Phòng, ở Bộ Ngoại thương và Bộ kinh tế đối ngoại, Viện Quản lí kinh tế Trung ương, theo cách nói nôm na (với ý đẹp) “Ngựa theo đường cũ” nghĩa là vẫn tự lực cánh sinh, xây dựng CNXH tại chỗ. Còn “Tiền đâu” luôn là thành ngữ “ở đầu mà ra”.

Tôi bắt đầu nâng cấp nhà 33 Bà Triệu, một ngôi nhà cổ kính và chật hẹp, giống như con “bọ hung”, trông rất buồn cười. Thế mà khi xin phép cải tạo nâng cấp lên cho đẹp, đích thân tôi phải đến thuyết trình việc này với một Hội đồng của Viện qui hoạch thành phố Hà Nội. Tôi nói: “Tôi chỉ làm cho ngôi nhà đẹp thêm và làm đẹp cho thành phố. Các đồng chí xem bản vẽ thì rõ”. Tôi được thông qua nhanh chóng không quá 90 phút. Về đến cơ quan lại gặp mấy bà người Úc, cơ quan bảo tồn di tích đến chất vấn: “Các ông vì ghét Pháp nên muốn xoá bỏ những di tích của Pháp để lại phải không?”.

Tôi trả lời: “Các bà nói đơn giản quá, Việt Nam là nước có truyền thống văn hoá, biết bảo tồn những cái gì là di sản quý giá của dân tộc mình và của thế giới. Hai bà cứ đợi xem. Khi nhà chúng tôi cải tạo nâng cấp xong nó sẽ đẹp hơn bây giờ nhiều. Và những cái gì là vẻ đẹp cũ vẫn được giữ nguyên”. Khi nâng cấp xong, tạp chí kiến trúc của Australia đã đăng một bài và ảnh cái nhà mới cải tạo nâng cấp, với những lời khen: “Chưa thấy một ngôi nhà cải tạo nâng cấp lại giữ được dáng cũ và tăng vẻ đẹp như vậy”.

Còn tiền, lấy đâu được 3,6 tỉ để cải tạo nâng cấp ngôi nhà từ 600 m2 sử dụng lên 2.200 m2, với một đơn nguyên mới, xây áp vào phía sau nhà, làm mất hẳn dáng con “Bọ hung”, thành một ngôi nhà 4 tầng, tuy nhỏ nhưng vẫn có vẻ bề thế hiên ngang đứng giữa ngã tư Lí Thường Kiệt và Bà Triệu. Các khách nước ngoài, nhất là Pháp và Mỹ rất khen, ngôi nhà cổ và đẹp. Ông Đô-na-hu, Chủ tịch Phòng Thương mại Mỹ, có trụ sở rất lớn, đối diện với Nhà trắng, khi ở 33 Bà Triệu ra về, còn đứng ngắm nhìn ngôi nhà này khá lâu. Cả hai ông bà đều khen ngôi nhà kiến trúc hài hoà, phía sau có điểm tựa bề thế!

Lúc đó là năm 1997. Tôi nói lần sau ông bà sang thăm Việt Nam tôi sẽ tiếp ông bà ở trụ sở mới, to đẹp hơn ngôi nhà này nhiều. Ông Đô-na-hu vội hỏi sao lại dời đi. Tôi trả lời ở đây quá chật hẹp với một Phòng Thương mại quốc gia, không đủ chỗ làm việc và điều kiện để trang bị phương tiện mới cho cán bộ công nhân viên sử dụng. Ông Đô-na-hu nói ngay: “Khi ông chuyển đến địa điểm mới, tôi sẽ sang thăm Việt Nam lần nữa”. Nhưng đến nay ông bà Đô-na-hu chưa sang thăm Việt Nam lần thứ hai.

Tôi nhớ lại năm 1994 phái đoàn Kedenrein của Nhật Bản do ông Toyoda Chủ tịch tập đoàn TOYOTA làm Chủ tịch sang thăm Việt Nam và thăm Phòng Thương mại Việt Nam. Để chuẩn bị cho đoàn đến thăm VCCI, ông Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam đến VCCI xem nơi tiếp đón đoàn. Xem xong ông Đại sứ bảo: “Nơi này không đủ tiêu chuẩn để tiếp đoàn Kedenrein Nhật Bản”. Tôi cũng thấy quá chật hẹp, điều kiện vệ sinh cũng kém, nên đành chuyển chỗ khác, bằng cách thuê phòng khách nhà Khách Chính phủ, số 12 phố Ngô Quyền để tiếp đoàn Kedenrein Nhật Bản do ông Toyoda dẫn đầu. Năm 2001, đoàn Kedenrein lại sang thăm Việt Nam do ông I-mai, Chủ tịch làm Trưởng đoàn và ông Nacarawa, Tổng thư kí. Họ tới thăm VCCI. Tôi tiếp đoàn ở số 9 Đào Duy Anh. Khi ra về, ông Nacarawa nói với tôi trụ sở của VCCI to và đẹp hơn trụ sở của Kedenrein ở Gotenba, dưới chân núi Phú Sĩ, (nơi tôi đã đến thăm 2 lần). Tôi cảm ơn và nói: “Trụ sở ở Gotenba vẫn đẹp và cổ kính hơn”. Số tiền có được 3,6 tỉ để nâng cấp ngôi nhà 33 Bà Triệu là do qui tụ được mọi nguồn tiền hiện có ở Hà Nội, các chi nhánh, nhất là chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh và một số công ti đóng góp. Trước đây do quản lí tài chính chưa có qui chế, mỗi nơi một cách, đơn vị nào thu nhập được nhiều thì sau lương, lại tiếp tục phân phối hàng tháng, hàng quý, có nơi hàng tuần cho anh em cán bộ công nhân. Nơi thì theo thâm niên, nơi thì theo tổ, nhóm, đơn vị nhỏ thu nhập được thêm cũng chia cho các thành viên.

Để khắc phục những tình trạng trên, từng bước tôi qui chế lại việc phân phối thu nhập. Lấy lương hàng tháng làm cơ bản. Vận dụng cho một tổ chức tự chủ về ngân sách. Nếu thu nhập và làm ăn khấm khá cũng không được quá chênh lệch với những cơ quan khác ở trung ương. Phát huy mọi nỗ lực của tập thể và cá nhân, làm tốt mọi công việc, tăng thu nhập cho ngân sách của Phòng, bảo đảm lương cơ bản và hàng năm thu nhập đều có tăng hơn năm trước cho mỗi thành viên. Nơi có điều kiện cũng như nơi không có điều kiện, đều làm việc ngang nhau, có thu nhập ngang nhau. Tránh tình trạng sử dụng tiền thu nhập của nơi có điều kiện đem phân phối bất hợp lí như năm 1996 (Trong lúc tôi đi công tác ở Tây Nguyên, các đồng chí đã duyệt một lúc cho chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh chia 526 triệu đồng, cho hơn 50 cán bộ công nhân viên. Có người được trên 23,6 triệu, có người không được đồng nào. Thế là sinh thắc mắc khiếu kiện. Khi tôi biết đã chia xong rồi. Tôi nghĩ thu hồi là đúng, nhưng tiền đã vào túi anh chị em rồi, đòi lại chắc ai cũng tiếc. Tôi thôi không đặt vấn đề thu hồi, nhưng phải kết thúc ngay từ đó, không được chia chác tuỳ tiện như vậy). Tôi nói rõ qui chế của Nhà nước, Bộ trưởng Tài chính cũng chỉ được phép duyệt chi dưới 500 triệu đồng, mà là chi cho công việc, không phải cho tiêu dùng, phân phối cá nhân. Thủ tướng mới duyệt từ 500 triệu đồng trở lên, mà phải dựa vào qui chế cho phép. Ta cần rút kinh nghiệm nghiêm khắc. Đơn vị, cá nhân nào thấy làm ra được tiền, do chính sách của Nhà nước đem lại, không biết dành dụm để xây dựng, tích lũy ăn hôm nay không lo ngày mai, khi “thất cơ lỡ vận”, nước đến chân mới nhảy, tránh sao khỏi hoạ (Nhân vô viễn lự, tất hữu cận ưu). Hàng trăm con người, rồi sẽ lên đến ngàn người, mà quản lí tài chính thế này, tất có ngày nhịn đói. Từ đó việc quản lí mới đi đúng qui chế đề ra.

Số tiền hàng năm do các nguồn thu được, chi lương, giải quyết phúc lợi, khen thưởng, hàng năm đều tăng. Nhưng điều quan trọng là phải tích lũy xây dựng cơ sở vật chất.

Sau khi hoàn thành nâng cấp trụ sở 33 Bà Triệu, Phòng tiếp tục xây dựng nhà 9 tầng mới ở số 79 Bà Triệu; Liên doanh với tỉnh Cao Bằng xây nhà Sao Bắc, số 4 Dã Tượng, Hà Nội.

Trong lúc đó Phòng chuẩn bị xây trụ sở mới ở số 9 Đào Duy Anh. Xây trụ sở mới phải chuẩn bị hàng chục tỉ, mới có thể khởi công một ngôi nhà có 10.000 m2 sử dụng. Đất đai đã có, còn vốn xây dựng phải huy động toàn lực của Phòng, từ các chi nhánh, các công ti, nhất là những công ti có thu nhập khá như công ti Sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ (đồng chí Ngãi) v.v... Mặt khác, Phòng giao cho đồng chí Phan Đức Thiện và Vũ Tiến Lộc bàn bạc với Công ti Toyota, hợp tác xây dựng bằng góp vốn xây nhà để thuê trong 10 năm, trả tiền trước sáu năm, bằng 1,7 triệu $US. Tôi vay của một công ti Nhật Bản được 180.000 USD với không lãi suất, vốn bao giờ trả cũng được. Nếu khó khăn thì công ti đó ủng hộ. Với số đô la và số tiền Việt Nam có được. Lãnh đạo Phòng quyết định khởi công xây trụ sở mới, số 9 Đào Duy Anh. Tiến hành khởi công tháng 31998. Hàng ngày, trừ những ngày đi công tác xa, tối nào tôi cũng đến hiện trường bàn bạc với bên B do đồng chí Hưng, Tổng Giám đốc Công ti VIC (Liên doanh Việt Nam - Cu Ba) và đồng chí Toàn, Phó Tổng giám đốc phụ trách. Hai đồng chí Hưng và Toàn giỏi về nghề nghiệp, nhiệt tình, có tấm lòng với VCCI. Còn tôi và đồng chí Phạm Gia Túc đại diện bên A cùng các đồng chí bàn bạc giải quyết những ách tắc, bảo đảm giao nhà cho Toyota thuê vào 16 tháng 8 năm 1998, (vì mỗi tháng chậm là mất 30.000 $US và còn phải bị phạt nữa). Ngôi nhà cao 8 tầng, diện tích sử dụng là 10.000 m2. Thời gian thi công chưa hết 10 tháng, với chất lượng, kĩ thuật, mỹ thuật bảo đảm như dự kiến. Đến nay đã tròn 6 năm giao nhà (phần thuê) cho công ti Toyota (16-8-2004). Một ngôi nhà lớn nhất của VCCI, hoàn toàn sở hữu của VCCI, không còn nợ ai một xu. Để xây dựng nó, đồng chí Đoàn Ngọc Bông hay nói là: “Tay không bắt giặc”. Tôi sửa lại một chút: “Có ít bột nhưng gột nên hồ tốt”. Nếu tính 5 nhà đã cho thuê (chưa kể Hải Phòng) hàng năm VCCI thu 15 tỉ đồng (chưa kể tầng 2 và tầng 8 nhà Đào Duy Anh làm siêu thị và bán hàng ăn uống, nộp lãi cho VCCI. Như vậy vừa có trụ sở sang trọng mà tăng thu cho ngân sách của Phòng. Đó chẳng phải là xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH của Phòng sao? Đó chẳng phải là điều vui lắm thay.

Tư duy của tôi là làm gì cũng cần chủ động, sáng tạo, tránh ỷ lại. Xin cấp trên là xin cơ chế, chính sách để làm. Còn xin ngân sách phải hạn chế đến mức tối thiểu. Vì nước nghèo, ngân sách cũng thu từ đồng tiền của dân nghèo mà ra. Dầu khí có khai thác được cũng chỉ đủ dùng cho việc mua dầu tinh để dùng trong nước. Mà dầu khí khai thác mãi rồi cũng hết. Ta phải làm ra giá trị gia tăng mới có tích lũy. Nên tôi rất suy nghĩ trước khi xin ngân sách Nhà nước. Khi ở Hải Phòng cũng vậy. Các công trình xây dựng cái nào địa phương lo được là không xin, để trung ương tập trung vốn làm những công trình lớn hơn. Đồng chí Vũ Đại, uỷ viên Trung ương, Bộ trưởng, Phó Chủ nhiệm Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước thường nói: “Chiều thứ bẩy, nếu muốn cải thiện, nghỉ Đồ Sơn, tắm biển, ăn hải sản thì tôi gọi điện cho ông Thành là được đón tiếp chu đáo. Thích nhất là khi ra về vui vẻ, ông Thành không xin bất cứ cái gì của Uỷ ban kế hoạch nhà nước. Đó là điều tôi thích nhất...”. Đồng chí nói nhiều lần cho nhiều người nghe. Tôi cũng được nghe trực tiếp vài ba lần.

Ý tưởng của tôi là mọi người phải tự vận động, hợp tác hỗ trợ nhau cùng phát triển. Còn đi xin ngân sách hoặc vay ngân hàng là chẳng đừng được mới xin và vay thôi. Có như vậy mới huy động được lòng ham muốn của con người thành động lực tạo ra vật chất cho mình và cho xã hội, mới có chủ nghĩa xã hội nhanh được. Do đó khi ở Hải Phòng tôi nêu lên “học thuyết” xây dựng chủ nghĩa xã hội tại chỗ, là vì những lí do trên. Đối với VCCI cũng vậy, tôi cũng từng bước xây dựng cơ sở từ Hà Nội, đến Đà Nẵng, Cần Thơ, Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, các nơi đều xây trụ sở làm việc khang trang, sạch đẹp, tạo thành một mạng lưới VCCI nối liền từ Bắc - Trung - Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ của Phòng tiếp xúc với doanh nghiệp được thuận lợi. Doanh nhân đến trụ sở Hà Nội hay ở các chi nhánh, được coi như ngôi nhà chung, có đủ phương tiện làm việc, tra cứu, nối mạng khi cần đến, đều được phục vụ. Mặt khác VCCI là một tổ chức NGO của một quốc gia, mới gia nhập với các tổ chức Thương mại quốc tế, cũng cần có bộ mặt tương xứng với một đất nước đang phát triển, tuy còn nghèo, nhưng với tầm chính trị thì đã đánh thắng hai đế quốc to. Mình còn kém xa các bạn quốc tế về phát triển kinh tế, nhưng độ dầy về bảo vệ độc lập, tự do, thì các bạn quốc tế đi đến đâu cũng muốn được tìm hiểu bản chất con người Việt Nam. Tục ngữ có câu: “quen nể dạ, lạ nể áo”, dù còn nghèo, nhưng cũng phải tiết kiệm, dành dụm xây dựng nơi tiếp đón khách; Hội thảo trong nước và quốc tế có nơi có chốn, để mọi người nhìn thấy phong cách làm ăn của một Việt Nam anh hùng. Cán bộ công nhân viên chức do vật chất tác động đến ý thức, nên từ làm việc đến ăn mặc, giờ giấc cũng nghiêm túc hơn. Tiếp khách ngoại cũng tự tin hơn, khi nghe thấy bạn khen nhà mình to đẹp. Khi tôi tiếp ông Chủ tịch Phòng Thương mại Đông Nam Á, người Phi-lip-pin, ông nói: “Phòng Thương mại ASEAN chỉ cần có một phòng như ở đây làm trụ sở cũng chưa có”. Tôi nghĩ ông ta khiêm tốn, nhưng đến trụ sở ở Phi-lip-pin tôi mới thấy nó bé thật. Tôi cũng cảm thấy vui vui về thành quả do mình và tập thể làm nên.

Nghĩ lại đất nước ta sau 17 năm đổi mới (kể từ Nghị quyết Đại hội 6 năm 1986), với số vốn nước ngoài đầu tư khoảng 30 tỉ đô-la Mỹ, cộng với đủ gạo ăn, có xuất khẩu, dầu khí khai thác bán dầu thô mua xăng dầu đủ sử dụng trong nước, và những giá trị gia tăng do trong nước làm ra tích lũy được, trong 17 năm qua chúng ta đã làm được nhiều việc, có bước tiến quan trọng, được nhân dân trong nước và thế giới công nhận. Nhưng vẫn còn là một nước nghèo. Tỉ lệ hộ nghèo còn cao, nhất là ở những vùng sâu, vùng xa, nông thôn... Nếu được kiểm toán khách quan, toàn quốc, thì số thất thoát, mất mát rất lớn...

Giả thiết rằng, mô hình và cách tính toán của tôi trình Hội nghị Bộ Chính trị đầu tháng 2-1988, không bị phá bỏ, với cách làm của tôi ở Phòng Thương mại và Công nghiệp từ 1993-2003, chắc sự phát triển kinh tế của đất nước sẽ có bước tiến xa hơn. Ở phạm vi toàn quốc nó thuận lợi hơn gấp hàng 100 lần ở Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Nhất là tệ tham nhũng, bệnh HIV-AIDS, tha hoá biến chất, xây dựng không theo qui hoạch, rất lãng phí... chắc không trầm trọng như hiện nay. Vì có bài bản, có lí luận, tiến hành từng bước theo một hệ thống, mô hình thống nhất, từ trên xuống dưới, để chuyển đổi nền kinh tế kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Mô hình đó cụ thể từng bước đi, ai cũng có thể nhìn thấy nắm bắt công việc mình làm, rất thiết thực. Rất tiếc nó bị phá sản, trong bối cảnh 12/14 Uỷ viên Bộ Chính trị và Tổng Bí thư sơ bộ kết luận đồng ý và phát biểu riêng đã đồng ý với đề án tôi trình bày. Đó có phải là “vận” nước, hay “vận” người, thật tiếc lắm thay. Tác hại này lại chỉ do một Uỷ viên Bộ Chính trị to mồm, ăn nói “hung hăng”, luôn luôn coi mình cái gì cũng biết tất cả, lấy nhiệt tình làm đầu nhưng kiến thức hạn hẹp, với thành phần thợ thủ công (thợ sơn) nên luôn luôn cho mình là giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng để nói, do đó nhiều người nể nang và cũng nhiều người sợ, phải chiều ý vì cái tính “võ biền” như đồng chí Trường Chinh nhận xét.

Xây dựng cơ chế và bộ máy tổ chức cán bộ

Năm 1993, Phòng tách ra khỏi Bộ Thương mại, số cán bộ công nhân viên khoảng trên dưới 100 người, và một chi bộ 30 đảng viên trực thuộc Đảng uỷ Bộ Thương mại chỉ đạo. Cơ quan văn phòng khoảng 30 người, còn lại ở chi nhánh và công ti trực thuộc. Với nhiệm vụ to lớn vừa được Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Chính phủ xác định qua tổ chức Đại hội Phòng lần thứ II, sau 30 năm thành lập Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam mới tổ chức Đại hội. Anh chị em làm việc tại Phòng theo quán tính của 30 năm tồn tại. Tính năng động và đổi mới có hạn, chỉ muốn làm theo cách cũ. Một số anh chị em nghĩ rằng tôi đã 64 tuổi sang làm Chủ tịch mấy năm rồi về hưu, cũng không sốt sắng hợp tác làm việc, hoặc chỉ bàn “chùn”, không muốn tìm thêm việc để làm. Đại hội chi bộ có 30 đảng viên, cũng phải thuê phòng họp ở khách sạn Hoà Bình, trong một cái kho, có vài cái quạt trần cũ kĩ. Nhưng vẫn thuê, vẫn họp bình thường. Hai lần đến họp ở đó, tôi thấy rất lạ!

Trước hết là, sau khi Điều lệ Phòng Thương mại được Đại hội lần thứ II thông qua và được Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn, dựa trên cơ sở của điều lệ, tôi cho xây dựng các qui chế làm việc, quản lí cơ quan, quản lí tài chính... đưa xuống cho cán bộ công nhân viên thảo luận góp ý kiến.

Tôi thành lập các ban nghiệp vụ, bỏ các phòng, thành lập Đảng bộ, đề nghị trực thuộc Đảng uỷ Khối kinh tế Trung ương, được cấp trên chấp nhận. Khó khăn ban đầu về tổ chức là thiếu cán bộ. Phải nâng cấp nhanh. Đồng chí Đoàn Ngọc Bông từ Tổng Thư kí lên Phó Chủ tịch, đồng chí Phạm Chi Lan từ Phó Tống thư kí lên Tổng Thư kí. Còn cấp phòng cũng được đưa lên cấp trưởng, phó ban. Có đồng chí phải kiêm nhiệm, chủ yếu là đề bạt từ dưới lên. Còn xin ở các ngành Trung ương về khoảng 10 đồng chí, bổ sung vào các nơi đang thiếu hụt. Bộ máy đi dần vào ổn định, hàng năm phát triển dần lên theo khối lượng công việc gia tăng. Về thông tin tuyên truyền, báo chí, từ một tờ tin, chuyển thành báo tuần, lấy tên là Diễn đàn Doanh nghiệp từ tháng 10-1993, mỗi tuần ra 4 số. Tiếp đến là Tạp chí VIB Forum cũng ra 4 số/tuần. Thành lập Trường cán bộ quản lí doanh nghiệp, Thư viện, Trung tâm nghiên cứu phần mềm về quản lí tài chính, thành lập thị trường điện tử, Trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (SMES), Văn phòng Giới chủ (người sử dụng lao động) v.v...

Công việc ngày càng đi vào nề nếp, anh chị em cán bộ công nhân viên làm việc rất nhiệt tình, từ các đồng chí Thường trực, đến các đồng chí trương, phó ban, chánh phó giám đốc công ti và trung tâm, đến toàn thể anh chị em trong khối VCCI từ Hà Nội đến địa phương. Tất cả đều làm việc hăng say, đoàn kết xây dựng VCCL ngày một lớn mạnh. Phòng đã tổ chức cho anh chị em học tập trong nước, nâng dần trình độ cho mọi người, một số được gửi ra nước ngoài đào tạo. Đến nay 85% cán bộ công nhân viên ở cơ quan văn phòng có trình độ đại học trở lên, Ban Thường trực và cán bộ trưởng, phó ban, trưởng phòng, phổ biến là có 2 bằng đại học, và biết một ngoại ngữ, một số có bằng thạc sĩ, tiến sĩ. Phương tiện làm việc cũng được trang bị tương đối hiện đại, công nghệ thông tin được dùng phổ biến trong cơ quan để làm việc, giúp cho kiến thức được sử dụng tốt vào việc phục vụ công việc của Phòng ngày càng có hiệu quả.

Về Đảng và tổ chức quần chúng, luôn luôn phát triển phù hợp với công việc và biên chế tăng. Đến nay Đảng bộ đã trên 200 đảng viên, dưới sự lãnh đạo của Đảng uỷ cơ sở có 11 đảng uỷ viên, có trên 20 chi bộ trực thuộc từ Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, đều trực thuộc Đảng uỷ VCCI quản lí theo ngành dọc.

Các đoàn thể như thanh niên, phụ nữ, công đoàn đều phát triển và làm nòng cốt trong phong trào thi đua, văn hoá quần chúng, thể dục thể thao, cải thiện đời sống cho mọi người. Chế độ lương, bảo hiểm xã hội ngày một hoàn chỉnh. Lương bình quân hiện nay là gần 2 triệu đồng/tháng. Bảo đảm cuộc sống tối thiểu cho mọi người. Nếu tính từ 1993 khi tách ra khỏi Bộ Thương mại, lương bình quân là 420.000 đồng, thì nay tăng gần 5 lần. Việc đi nghỉ hàng năm cũng bắt đầu cho nhiều anh chị em đi du lịch nước ngoài như Thái Lan, Trung Quốc... Tính đoàn kết trong Đảng và quần chúng thì thông qua các hoạt động sôi nổi trong công việc và sinh hoạt văn hoá, thể thao thể dục, tạo điều kiện cho mọi người gặp gỡ, tiếp xúc, giao lưu kiến thức, văn hoá:. được gần nhau, tạo không khí trong cơ quan lúc nào cũng như ngày hội mà Lénine mong ước: cách mạng là ngày hội của quần chúng.

Trong điều kiện độc lập về ngân sách, không có tài trợ của ngân sách Nhà nước, nên việc chi tiêu luôn phải tiết kiệm, chi tiêu có mục đích, chi tiêu tạo ra giá trị gia tăng được khuyến khích. Còn chi tiêu, tiêu phí thì giảm tới mức thấp nhất.

Tôi có ý thức luôn luôn chuyển “lòng tham không đáy” cho công việc quốc gia, nghĩa là công việc của Phòng, còn cá nhân là “lòng tham phải có đáy” (nhân dục hữu nhai). Tôi luôn suy nghĩ việc này sang việc khác, nhằm phát triển doanh nghiệp. Nhiều anh chị em gặp tôi thường nói là: “luôn luôn bị giao công việc mới”, “Anh em suy nghĩ không kịp Thủ trưởng”. Quả thật như vậy. Tôi có thói quen không bao giờ làm theo đường mòn, rập khuôn, mà luôn luôn sáng tạo, nghĩ ra việc mới, hoặc học tập kinh nghiệm có hiệu quả của bạn. Còn ngồi chơi xơi nước, tán chuyện tào lao, là tôi rất sốt ruột, nhất là bới móc chuyện đời tư của người khác...

Đến nay tổng số cán bộ công nhân viên là 800 người. Đảng bộ 5 năm liền là Đảng bộ vững mạnh, trong sạch. Tôi thường nói với các đồng chí trong Đảng bộ “Được cờ, được giấy khen, bằng khen của Đảng bộ cấp trên là mừng. Nhưng chúng ta nhớ rằng Đảng bộ ở một cơ quan không có quyền hạn, ít quan hệ đến những việc: Xin, cho, cấp, phát... như cơ quan Nhà nước, chỉ có đi giúp đỡ, bảo ban, hướng dẫn... doanh nghiệp làm giàu, tạo mọi thuận lợi cho họ, bằng lời nói, giấy tờ hướng dẫn... nên môi trường cũng tạo cho Đảng bộ ta vững mạnh, trong sạch. Giả thiết ta cũng có quyền quyết định đến tài chính, quan hệ lợi ích sống còn của doanh nghiệp, chưa chắc chúng ta đã giữ được trong sạch. Do đó, Đảng uỷ phải tăng cường giáo dục cho đảng viên, chặt chẽ khi kết nạp, bảo đảm đủ tiêu chuẩn, nhất là tiêu chuẩn tự giác đứng dưới cờ của Đảng, dám hi sinh quyền lợi cá nhân cho quyền lợi dân tộc, kể cả tính mạng của mình. Có làm được như vậy mới luôn là Đảng bộ vững mạnh, trong sạch, xứng đáng với lá cờ của cấp trên trao tặng cho Đảng bộ ta”.

Những cuộc đi công tác nước ngoài và trong nước đáng ghi nhớ!

Thăm quê hương Lénine

Từ ngày lên công tác ở Trung ương, nhất là thời kì làm Bộ trưởng Bộ Ngoại thương, Bộ trưởng Bộ Kinh tế đối ngoại và Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, tôi thỉnh thoảng đi nước ngoài công tác. Mỗi cuộc đi, tôi đều đặt ra cho mình một mục tiêu nhất định. Đi ít nhưng được nhiều, giúp cho suy nghĩ vận dụng, bổ sung vào kiến thức của mình.

Tháng 3-1987 tôi sang Liên Xô lần thứ 2, họp khối SEV. Năm đó là năm rét nhất kể từ sau Đại chiến thứ II. Tôi đến thành phố Léningrad (nay là Saint-Petersburg) rét xuống âm 38 độ, âm 39 độ. Rét ơi là rét, mặc bao nhiêu quần áo cũng không đủ ấm. Khi đến viếng đài liệt sĩ vô danh của thành phố, phải chạy, mặc niệm 1, 2 giây, đồng chí hướng dẫn đã bảo phải vào xe ngay kẻo bị “cóng”. Các đồng chí Liên Xô nói rét năm nay bằng rét lúc quân phát xít Hít-le tấn công Léningrad, nên nhiều lính Đức đã chết rét. Trong lúc Liên Xô rét như vậy thì Việt Nam mùa đông nóng như mùa hạ, làm cho nhiều nơi mất mùa, vì chưa có giống lúa mới chịu nóng. Nạn đói năm 1987-1988 ở các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An trầm trọng, do mất vụ Đông Xuân vì khí hậu nóng.

Khi họp Hội nghị khối SEV về ngoại thương tôi cảm thấy ít bổ ích, thiếu tính phát triển tích cực, bị động với Bộ Ngoại thương Liên Xô. Đến họp như để chia phần viện trợ từ Liên Xô, còn các nước Đông Âu và Việt Nam như những thành phần phụ thuộc, điều chỉnh thêm bớt chút ít, khi được phân công xuất nhập trao đổi hàng hoá. Tôi nhớ lúc đó Việt Nam xuất ít, nhập nhiều, thiếu ngoại tệ (Rúp). Các đồng chí đại diện của ta ở khối SEV bảo tôi viết một thư tay cho đồng chí Aristov, Bộ trưởng Bộ Ngoại thương Liên Xô xin vay 100 triệu Rúp để thanh toán. Đồng chí Aristov bảo Ngân hàng MIB của khối SEV cho vay đủ 100 triệu Rúp. Tôi thấy dễ dàng quá. Tôi nghĩ, nếu khi tôi ở Hải Phòng có một triệu Rúp tôi sẽ làm giàu. Nay về Trung ương có 100 triệu Rúp trả nợ mua bột mì, kí một cái là đã ăn hết sạch. Dám cho Việt Nam 100 triệu Rúp làm vốn kinh doanh, sau một năm sẽ đẻ ra bao nhiêu lãi? Năm sau không phải vay nữa có tốt biết bao? Cứ vay nợ để ăn, “nợ chằng, nợ đụp”, biết bao giờ trả nợ cho xong.

Cuối năm 1987, đồng chí Aristov thôi giữ chức Bộ trưởng Ngoại thương. Năm 1989 đồng chí được cử làm Đại sứ Liên Xô tại Phần Lan. Năm 1989 tôi sang thăm Phần Lan, tôi đến thăm đồng chí Aristov, đồng chí Hồ Huấn Nghiêm, uỷ viên Uỷ ban Kế hoạch cùng đi trong đoàn với tôi, giúp tôi phiên dịch tiếng Nga.

Tôi đến Đại sứ Liên Xô ở thủ đô Hensinky, hai vợ chồng đồng chí Aristov xuống đón chúng tôi tại chân cầu thang máy, rất thân tình. Trong hơn 1 giờ đến thăm đồng chí Aristov, đồng chí rất cảm động, kể lại bao chuyện biến thiên trong đời mình. Đồng chí nói: “Hơn một năm bị mất chức Bộ trưởng, tôi như người mất hồn, mới sang làm Đại sứ được mấy tháng tại Phần Lan, mới trở lại bình thường. Được các đồng chí Việt Nam đến thăm, tôi và nhà tôi rất phấn khởi, ngay từ khi nhận được tin đồng chí đến thăm...”. Tôi tặng đồng chí một kỉ niệm nhỏ của Việt Nam, bức tranh sơn mài. Ra về tôi và đồng chí Hồ Huấn Nghiêm trao đổi với nhau, thấy các đồng chí Liên Xô cũng như đồng chí Aristov tình nghĩa và chân thành với Việt Nam quá! Một tình cảm của những người cộng sản.

Thăm quê hương Khổng Tử

Năm 1996 tôi được đồng chí Lí Thụy Hoàn, uỷ viên Thường vụ Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội nghị chính trị Hiệp thương Trung Quốc (Hiệp chính) mời sang Bắc Kinh dự hội thảo: “Trung Quốc và châu Á với thế kỉ 21” do đồng chí Giang Trạch Dân, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Cộng hoà Nhân dân Trung hoa; đồng chí Lí Bằng, Thủ tướng Quốc vụ viện; đồng chí Lí Thụy Hoàn, Chủ tịch chính Hiệp hội chủ trì.

Cuộc hội thảo trong 4 ngày. Khách nước ngoài được mời có 19 người gồm các ông Lí Quang Diệu, nguyên Thủ tướng Singapore, cựu Thủ tướng Đức Smith, cựu Thủ tướng Nhật Bản Nakasonê, Kissinger Mỹ, và một số vị khác. Cuộc hội thảo rất phong phú, có nhiều dự đoán sắc sảo. Có đoàn đi rất đông, như đoàn Mỹ tới 40 người. Đoàn Việt Nam có 3 người. Sau khi đi dự Hội nghị về, tôi đã báo cáo với Bộ Chính trị 32 vấn đề mà tôi rút ra từ cuộc hội thảo này.

Kết thúc hội thảo, Thủ tướng Lí Bằng hỏi tôi có đi tham quan địa phương nào để đồng chí cho thu xếp. Tôi nói: “Tôi là đồ đệ của Khổng Tử, tôi muốn đi thăm quê hương của Khổng Tử”. Đồng chí cho chuẩn bị ngay. Tôi đề nghị với đồng chí, tôi xin phép được đi với một số doanh nghiệp Việt Nam và Trung Quốc, mong đồng chí thông cảm. Nhưng Thủ tướng Lí Bằng vẫn điện cho tỉnh Sơn Đông đón tiếp tôi rất trọng thị.

Tôi nhớ hôm đến Bắc Kinh dự hội thảo, một đổng chí Vụ trưởng Bộ Ngoại giao ra đón ở sân bay. Về đến khách sạn Bắc Kinh, tôi thấy trải thảm đỏ, hoa, hai bên hai hàng đứng đón. Tôi nghĩ mình đi hội thảo như mọi lần, có ai đón đưa gì đâu, cứ đến khách sạn, phát biểu xong là về. Tôi ghé tai hỏi đồng chí Đào Duy Chữ và Vũ Tiến Lộc: “Bạn đón đoàn nào mà sang thế?”. Đồng chí Chữ bảo: “Bạn đón anh đấy!”. Tôi tưởng đồng chí nói đùa, hoá ra bạn đón tôi thật. Tôi vội sờ tay lên cổ, xem lại cravate, và quần áo cho chỉnh tề..., các đồng chí tặng hoa, mời vào phòng khánh tiết của khách sạn giải khát và bạn giới thiệu một vài nét ngắn gọn về cuộc hội thảo quan trọng này. Tôi đã có bài gửi sang Trung Quốc trước 6 tháng, bạn đã cho dịch sang tiếng Anh và Trung Quốc. Ngày mai vào hội thảo, tôi chỉ đọc bằng một trong hai thứ tiếng trên, tuỳ tôi lựa chọn. Tiếng Anh tôi khá hơn, chắc đọc sẽ lưu loát. Còn tiếng Trung tôi đọc và viết tốt, nhưng nói tiếng phổ thông rất kém. Nhưng chẳng lẽ đến Trung Quốc lại đọc tiếng Anh, tôi đành đọc tiếng Trung, dù phát âm không chuẩn thì bạn cũng vui hơn là tôi đọc tiếng Anh. Đọc xong bài phát biểu, đồng chí Chữ là người giỏi tiếng Trung, bảo tôi: “Riêng anh dũng cảm đọc tiếng Trung là đáng 10 điểm rồi!”. Cả ba anh em cùng cười.

Tôi đi Tế Nam, thủ phủ tỉnh Sơn Đông, một tỉnh lớn miền Duyên Hải, với 87 triệu dân, đông dân hơn nước ta, có nền công nghiệp phát triển, có bia Thanh Đảo nổi tiếng, đặc biệt có huyện Khúc Phụ, quê hương Khổng Tử, có núi Thái Sơn, có biển Bắc Hải. Khi sinh thời Khổng Tử thường dẫn đệ tử lên núi Thái Sơn vừa du ngoạn, vừa giảng bài cho môn đồ hoặc đi thuyền trên biển... Thành phố Tế Nam cách thủ đô Bắc Kinh 800 km. Chúng tôi đi bằng máy bay, sau đó đi ôtô khoảng hơn 70 km đến huyện Khúc Phụ, tỉnh Sơn Đông thời Xuân Thu, cách đây hơn 2500 năm là hai nước: “Tề và Lỗ”. Khổng Tử sinh ở nước Lỗ nhỏ, nước Tề lớn và mạnh hơn nước Lỗ. Nhưng là có đạo, nên nước Tề cũng kiêng nể nước Lỗ.

Đoàn chúng tôi đến Tế Nam được tỉnh Sơn Đông đón tiếp chu đáo. Tối hôm đó đồng chí Chủ tịch tỉnh Sơn Đông chiêu đãi chúng tôi.

Hôm sau, chúng tôi đi thăm Khổng Miếu, Khổng Phủ và Khổng Lâm (Khổng miếu là nơi thờ Đức Khổng Tử, Khổng phủ là gia đình Khổng Tử. Khổng lâm là khu riêng hàng chục ha nơi an táng Khổng Tử và phu nhân, con trai Khổng Tử là Lí Ngư và cháu đích tôn là Tử Tư, người viết ra sách Trung dung. Tổng số có hơn 3.000 ngôi mộ).

Khổng Miếu xây từ đời nhà Tống. Khi Khổng Đạo được coi là quốc đạo của nhà nước Trung Quốc và từ đời thứ 34 con cháu Khổng Tử mới đến Khổng phủ ở. Khổng miếu cũng có diện tích bằng Cố cung (Thiên An Môn), rộng 73ha, xây dựng na ná như Cố cung. Có khác là hai bên tả vu, hữu vu ở Khổng miếu là bia ghi các đời vua đến đây tế Khổng Tử. Còn Cố cung là các quan triều đình làm việc.

Khổng miếu xây cao gần bằng Cố cung, chỉ thấp hơn một viên gạch, gọi là: “Kính Thiên Tử” xây thấp một chút bằng chiều dày viên gạch.

Toàn huyện Khúc Phụ chỉ có nhà 2 tầng và bắt buộc không được xây cao hơn Khổng miếu.
Nơi đây khách quốc tế đến tham quan, lúc nào cũng có hàng vạn khách du lịch ở khắp huyện Khúc Phụ. Các nhà nghiên cứu lịch sử, khảo cổ, nhà văn, nhà thơ, nhà báo... đi lại tấp nập, buổi trưa nằm la liệt ở Khổng lâm, Khổng miếu... để suy tư về một nhà tư tưởng vĩ đại phương Đông.

Trong Khổng miếu, ngoài tượng của Khổng Tử, đồ cúng tế, trang bị vừa phải như sinh thời của Ngài, không lộng lẫy như ở Cố cung. Đặc biệt có bức tường giả để giấu các bộ sách kinh điển như: Tứ Thư, Lục Kinh v.v... của cháu đời thứ 7 của Khổng Tử, để chống lại chủ trương của Tần Thuỷ Hoàng là “Đốt sách, giết học trò” (Phần thư, Khanh nho). Cái hầm giả là bức tường đó nay vẫn còn. Đến Khổng Lâm, nơi đặt mộ của Khổng Tử và phu nhân, rồi đến cháu đích tôn là Tử Tư, rồi mới đến Lí Ngư là con trai của Khổng Tử, thân sinh ra Tử Tư, vì Tử Tư được xếp vào bậc đại hiền, nên xếp mộ ở trước bố, gần với ông nội là đức Khổng Tử.

Khi Khổng Tử mất, hơn 3000 học trò của ông, nhất là 72 người hiền, những người học trò giỏi nhất, đến làm nhà ở bên mộ thầy ba năm. Riêng Tử Cống ở lại 6 năm mới về. Nhà Tử Cống hiện nay vẫn còn dấu tích các cây cổ thụ do các ông Tử Lộ, Tử Cống trồng, đến nay vẫn giữ được. Theo các hướng dẫn viên cho biết: “Nếu không có Thủ tướng Chu Ân Lai tích cực can thiệp và bảo vệ, thì khu di tích lịch sử vĩ đại này đã bị thời kì Cách mạng văn hoá ở Trung Quốc phá hết!

Đến nay con cháu của Khổng Tử về ở Bắc Kinh, không còn ai ở Khổng Phủ. Cháu đời thứ 80 của Khổng Tử đã sang Hà Nội tham quan và vào Văn Miếu thắp hương cho Khổng Tử. Rõ ràng Khổng Tử là một người thầy tiêu biểu của muôn đời, đã được UNESCO thừa nhận đúng như trong Khổng Miếu, ở đền chính bức đại tự rất to viết 4 chữ “Vạn thế sư biểu”.

Nước Lỗ quê hương của Khổng Tử, là nơi sinh ra rất nhiều danh nhân văn hoá nổi tiếng như Khổng Minh, Vương An Thạch, tể tướng Trung Quốc thời nhà Tống. Lại có núi Thái Sơn cao nhất vùng. Khổng Tử đã nói: “Đăng Thái Sơn nhi thiên hạ tiểu” (lên núi Thái Sơn, trông thiên hạ nhỏ bé). “Thiên hạ”, cách nói của thời kì phong kiến Trung Quốc, coi Trung Quốc là cả thế giới. Nay lên tham quan núi Thái Sơn đã có xe cáp treo, chỉ phải trèo núi khoảng 300-400m. Cao như thế mà các vua Trung Quốc hàng năm đến tế Khổng Tử lên đỉnh núi Thái Sơn. Vua Càn Long nhà Thanh là ông vua ba lần lên núi Thái Sơn tế đức Khổng Tử.

Trong chuyến đi thăm này tôi mới hiểu rõ tại sao Trung Quốc khi tổ chức cưới (và Việt Nam cũng vậy), dùng chữ “Song hỉ”. Trước đây tôi nghĩ đám cưới là của hai họ, nhà trai nhà gái, cùng vui nên dùng chữ “Song hỉ”. Chuyến đi Sơn Đông lần này tôi mới hiểu ngọn nguồn. Đó là một chuyện ngẫu nhiên, tình cờ và là vận may của Vương Tể tướng nước Tống. Ông học giỏi nhất vùng, cùng quê với Khổng Tử, sau này là người học giỏi nhất nước, làm đến chức Tể tướng Trung Quốc.

Chuyện kể rằng: Khi đi Bắc Kinh để thi đình, trên đường xa 800 km, ông đi qua một vùng trù phú. Ở đấy có một “Phú gia địch quốc” có cô con gái xinh đẹp. Phú ông muốn tìm người tài trong thiên hạ để kén chồng cho con gái. Phú ông cũng là người học rộng, uyên bác, muốn thử tài trong thiên hạ nên viết một vế câu đối, treo bên cái đèn lồng tả “Đèn kéo quân”, nội dung:

Mã tẩu đăng, đăng tẩu mã, đăng tức, mã đình bộ” (nghĩa là: ngựa chạy theo đèn, đèn chạy theo ngựa, đèn tắt, ngựa dừng chân).

Ngài... “tân khoa” Vương An Thạch học giỏi nổi tiếng nhất vùng mà đọc đi, đọc lại suy nghĩ mãi, cũng không tìm ra được lời hay, ý đẹp, đối đáp lại... Ông đành bàn với những người phục vụ cùng đi: “Hãy về Kinh thi xong, tính sau”, mặc dù ngài “tân khoa” rất luyến tiếc người con gái đẹp, lẫn của cải giàu sang, và tự trách mình học giỏi, tài cao mà có một vế câu đối... lại không đối được, đành đi thẳng.

Đến Bắc Kinh, ông vào thi ròng rã hàng tháng. Cuối cùng ông đỗ “Tam khôi”, một trong ba người giỏi nhất thi đình (lấy tiến sĩ). Nhưng ông Vương chỉ đứng thứ ba, vì khoa này không có ai đủ điểm trúng Trạng nguyên và Bảng nhãn. Ông đỗ Thám Hoa. Khi kiểm tra lại (phúc khảo), Vua Tống cho gọi ông vào Triều và ra cho một vế câu đối, bắt ông đối lại. Cờ nhà Tống lúc đó có thêu con hổ ở giữa, nên vua ra vế câu đối có nội dung sau đây: “Hổ phi kì, Kì phi hổ, Kì quyển, hổ tàng hình” (nghĩa là: Hổ bay theo cờ, cơ bay theo hổ, cờ cuốn, hổ giấu mình).

Ngài Thám hoa mừng thầm trong bụng là mình gặp may, ông liền lấy vế câu đối của “Phú ông” đem đối lại, Vua khen hay, chính thức phê duyệt ông đỗ Thám Hoa, đứng thứ ba trong hàng Tam Khôi. Và đứng đầu tiến sĩ khoa đó.

Ông vinh quy, không quên qua nhà “Phú ông” dùng vế câu đối của vua ra để đối lại câu đối của phú ông. Phú ông rất hài lòng và gả con gái yêu cho quan Tân khoa Thám hoa Vương An Thạch. Hai vế câu đối trọn vẹn:
“Mã tẩu đăng đăng tẩu mã, đăng tức, mã đình bộ.
Hổ phi kì, kì phi hổ kì quyển, hổ tàng hình”.
Phú ông cho tổ chức đám cưới ngay tại nhà mình. Trong ngày tân hôn, quan Thám hoa nhận được cờ Tiệp của nhà vua phong cho làm Tể tướng (ngang Thủ tướng), phải kíp về triều nhận nhiệm vụ

Quan Thám hoa sung sướng, viết hai chữ rất to tặng bố vợ và gửi về gia đình: “Song hỉ”. Một vận may hiếm có: làm Tể tướng lấy vợ đẹp. Chữ nghĩa thông minh nhất nước mà phải nhờ 2 vế câu đối của người khác mới thành danh. Thế mới biết làm cả 2 vế câu đối thì dễ, còn phải đối lại vế câu đối của người khác là khó lắm thay!

Chẳng phải thế mà ngay trong nước ta, đời này lưu truyền đời khác, còn một vế câu đối vẫn chưa có nhân tài điền vào.

Ở làng Rồng huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương có vế câu đối: “Đình làng Rồng có cây gỗ rắn, đục ba năm chẳng cắn miệng xà, long lại hoàn long...”.

Hay ở làng Bo, Thái Bình có vế câu đối: “Con bò lang chạy vào làng Bo

Hay hai câu đối của Đoàn Thị Điểm thách Trạng Quỳnh đối: “Da trắng vỗ bì bạch”, “Thằng Quỳnh ngồi trên cây cậy dái đỏ hồng hồng”.

Ngay đến Lưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, khi sang sứ Trung Quốc, đến Hữu nghị quan (ngày nay), người gác cửa quan thấy quan trạng Mạc Đĩnh Chi đến muộn bèn ra một vế đối, dán ở bên cửa quan và khoá cửa lại: “Đáo quan trì, quan quan bế, nguyện quan khách quá quan” (đến cửa quan chậm, cửa quan đóng, xin quý khách trèo qua mà đi).

Câu đối khó quá, ngay người ra câu đối cũng chẳng đối được. Quan trạng Việt Nam lấy ngay ý đó viết nốt vế kia dán lên: “Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh, tiên đối” (Ra đối dễ, đối lại khó, xin ngài đối trước).

Vị gác cửa quan liền mở cửa cho Trạng nguyên Việt Nam sang Trung Quốc và cho là nhà thông thái nhất của Việt Nam. Chẳng thế mà Mạc Đĩnh Chi sang sứ Trung Quốc, đời Tống, đời văn hiến thịnh trị mà triều đình Trung Quốc đã tặng Mạc Đĩnh Chi là Trạng nguyên Trung Quốc.

Thăm quê hương Chúa Jesu và thánh Mohamad

Trung Đông còn ghi lại đậm nét quá trình lịch sử tiến bộ của loài người. Trung Đông lúc nào cũng có nhiều sự kiện, nơi tiếp giáp 3 lục địa chủ yếu của Trái đất: châu Á, châu âu, châu Phi. Và nơi đây từ xa xưa đã xuất hiện nhiều tôn giáo, chỉ sau đạo Phật của châu Á. Đó cũng là nơi xuất hiện một dân tộc tuy nhỏ bé nhưng khá thông minh, đã sinh ra chúa Jesus, Marx, Einstein.v.v... là dân tộc Do Thái, thông minh đến mức mà Hitler căm tức họ, đã giết 4 triệu người Do Thái trong đại chiến thế giới thứ II. Sau đại chiến, nhờ Mỹ, Anh và Liên hiệp quốc can thiệp họ mới được trở về mảnh đất quê hương của Jesu nay gọi là Israel, một đất nước có 7 triệu dân với diện tích khoảng 30.000 km2, còn khoảng 6 triệu dân vẫn đi kinh doanh buôn bán ở nước ngoài, nhưng hàng năm vẫn gửi về xây dựng đất nước hàng chục tỉ USD.

Tháng 7-2001, tôi dẫn đoàn doanh nghiệp Việt Nam gần 20 người sang thăm Israel. Đến đây mới thấy ý chí của người Do Thái và sự tranh chấp đất đai phức tạp giữa Palestine và Israel, cuộc đấu tranh giữa 2 đạo giáo Hồi giáo và Thiên chúa giáo. Nội bộ Thiên chúa giáo, Do Thái giáo và Tin Lành cũng rất phức tạp. Đến đây mới thấy hết tính phức tạp của tín ngưỡng, tâm linh, thần quyền.

Sau khi làm việc với Bộ Ngoại giao, Bộ Phát triển Đầu tư, Phòng Thương mại và Công nghiệp Israel, thăm một số xí nghiệp chế biến kim cương, xí nghiệp điện tử, chế biến điêu khắc các loại hình tượng bằng kim loại của các nghệ nhân nổi tiếng, thăm nơi trồng rau trên bãi sa mạc thiếu nước ngọt (vì cả nước Israel là sa mạc, nguyên liệu chỉ có một “biển chết”, biển không còn hoạt động và cạn dần, nước mặn đến 30 độ bom-bê. Thế mà vẫn tổ chức tắm ở đây, coi như tắm nước muối), đến thăm 5 ki-but (hợp tác xã) trong tổng số hơn 500 hợp tác xã, với gần 500.000 xã viên. Hợp tác xã sản xuất kinh doanh rất giỏi, ăn tập thể, ở tập thể. Chúng tôi đã đến ăn một bữa trưa do hợp tác xã chiêu đãi. ăn do khách tuỳ chọn, có khoảng hơn 30 món ăn mỗi bữa, và thay đổi luôn. Mỗi căn hộ 64 m2 cho gia đình 4 người, có sân vườn. Hàng năm sau khi chia lãi cho xã viên, mỗi xã viên được thưởng 5.000 USD để đi du lịch. Đi làm đều có ô tô chở đi. Chúng tôi đến thăm một ki-but nuôi cá cảnh xuất khẩu sang Nhật Bản doanh số 300 triệu USD/năm. Mọi người đi làm việc đúng giờ và vận hành máy móc, hầu hết là tự động hoá, như tưới nước cho cà chua, cà tía. Có máy tính cặp vào lá cây, khi cây thiếu nước, máy tự động tưới cho cây. Nhưng cũng có những khâu làm thủ công như bắt cá cảnh, đóng vào các công-ten-nơ có dưỡng khí, đưa ra sân bay, bảo đảm đến Nhật cá vẫn mạnh khoẻ.

Theo báo cáo của ông chủ nhiệm hợp tác xã thì đã có một số người không muốn làm ở hợp tác xã, muốn xin ra hợp tác xã để đi làm nơi khác, tự do.

Cả nước Israel có 3 thành phố lớn, Thủ đô là Ten-a-vip, cảng An- pha và thành phố Jerusalem còn đang tranh chấp giữa Palestin và Israel. Đoàn chúng tôi nghỉ ở Ten-a-vip. Cảng An pha là cảng nước sâu. Khi đoàn chúng tôi đến xem cảng, thấy hàng không mẫu hạm Mỹ chở đầy máy bay đậu ở cảng này.

Ngày cuối, chúng tôi đến thăm thánh địa Jerusalem. Chúng tôi đến thăm mộ chúa Jesu, cùng là dấu tích ông bị đóng đinh câu rút. Mộ ông và đền thờ ông được quản lí chặt chẽ. Dù thờ chúa Jesu, nhưng lại chia làm 3 tông phái khác nhau: Thiên chúa giáo, Do thái và Tin lành. Ba tông phái đều coi mình là theo chính đạo của chúa Jesu, và đều đòi trông coi đền thờ lẫn mộ chúa. Để bảo đảm không thiên vị, ba phái phải thuê một người theo đạo Hồi cầm chìa khoá trông coi ngôi mộ và đền thờ chúa Jesu. Tôi đến đây mới thấy con chiên của Chúa từ khắp thế giới đến đây làm lễ. Tấm đá Chúa Jesu nằm khi bị đóng đinh câu rút chết, luôn luôn sạch bóng, vì ai đến đây cầu Chúa đều cúi sát miệng liếm trên tấm đá, rồi vào đền thờ Chúa đứng hàng giờ. Người đông nghịt, nhất là ngày chủ nhật. Chúng tôi là khách tham quan cũng đứng hồi lâu để thấy những gì con chiên của Chúa tưởng nhớ người quá cố, người đã tử vì đạo, vì hạnh phúc cho dân lành.

Sau khi thăm mộ và đền thờ chúa Jesu, chúng tôi sang đền thờ thánh Mohamad và bức tường thờ thánh Mohamad, chiếu theo đường thẳng chỉ cách đền thờ chúa Jesu khoảng 400 mét. Nhưng cách hành hương, lễ bái hai bên khác biệt nhau. Giữa Hồi giáo và Thiên chúa giáo luôn luôn kình địch nhau. Mặc dù mục đích của hai vị Thánh này đều cứu loài người khỏi khổ đau, không còn đàn áp nhau giữa người và người. Thế mà do bị kích động của các nhà cầm quyền, cũng như những vị trưởng lão của 2 tôn giáo, mà các tín đồ không hoà hợp được. Hai giáo phái này đều có tổ chức, và là 2/3 lôn giáo lớn nhất thế giới. Họ đều nhân danh vì mục đích chung cao cả, là cứu loài người “khỏi đau khổ”, nên đã có những cuộc chiến tranh đẫm máu, như cuộc chiến tranh “thập tự chinh” và ngày nay vẫn còn tiếp diễn, kì thị, chém giết lẫn nhau.

Chúng tôi vào đền thờ Thánh Mohamad, rộng rãi trang nghiêm, thấy ít người vào hành lễ. Nhưng sang bức tường thờ Thánh thì đông như ngày hội. Những con chiên tứ phương đến, đều mặc quần áo cổ truyền của vùng Trung Đông, áo trắng, khăn trắng quấn trên đầu mỗi người. Cầu gì đều viết lên giấy, đặt trên bức tường, ghi rõ họ tên quê quán, nội dung cầu Thánh cho gì, rồi đập đầu vào tường 3 lần. Có người đập rất nhiều lần. Tôi hỏi bà hướng dẫn viên đập đầu mạnh như vậy nếu vỡ đầu thì sao? Bà bảo: đã có khăn che chắn. Lúc đó tôi mới hiểu cái khăn đội trên đầu là công cụ bảo hiểm cho cái đầu khi lễ thánh, cầu nguyện. Đồng chí Vũ Khoa, Tổng giám đốc Vinaconex hỏi tôi: “Mọi người đều viết giấy cầu nguyện, sao anh không viết”. Tôi bảo đồng chí Vũ Khoa: “Thánh Mohamad được cho là ngài thông minh nhất thế giới, sao ngài lại không biết tôi đến đây. Tôi chỉ vái ba vái là đủ”.

Chuyện đến thăm thành phố Jerusalem cổ kính, biết bao sự kiện, biết bao công trình xây dựng theo văn hoá Trung Đông. Nhìn sang dải Gaza, nơi đang có sự tranh chấp quyết liệt giữa Palestin và Israel thì tôi lại buồn cho Trung Đông, chưa biết bao giờ đến hồi chấm dứt. Đến hôm nay vẫn còn quyết liệt, bởi ai cũng muốn hơn, ai cũng muốn thắng, tuy lẽ phải lúc nào cũng thuộc về kẻ có sức mạnh. Không biết đến bao giờ chân lí thuộc về kẻ yếu?

Tối hôm chia tay, Đại sứ Mensua, đại sứ Israel tại Việt Nam, chiêu đãi toàn đoàn tại gia đình. Đại sứ Mensua là người dân tộc thiểu số, không phải gốc Do Thái. Ông là Đại tá chuyển sang làm ngoại giao, một người rất quý Việt Nam. Tối hôm đó ông mời 2 cụ thân sinh và các anh chị em con cháu đến đông đủ, hàng chục người cùng đến liên hoan với chúng tôi. Bà đại sứ đã sang Việt Nam cùng Đại sứ, nên nấu món ăn Việt Nam rất giỏi. Chúng tôi được chiêu đãi cả món ăn Israel. Một bữa tiệc rất thân thiết, đầm ấm như ở chính gia đình mình. Tôi rất nhớ cụ ông luôn luôn kể chuyện gia đình, đất nước, cho chúng tôi nghe, như những người thân ở xa về. Ông bà Đại sứ Mensua ân cần chăm sóc và dành cả thời gian đưa đoàn đi tham quan đất nước Israel. Ông hay nhắc đến việc Việt Nam tham gia ý kiến với Palestin và Israel mong họ thương lượng với nhau để hai nước sống hoà thuận. Việt Nam có rất nhiều kinh nghiệm về vấn đề này.

Thăm Hợp chủng quốc Hoa kì

Tháng 9-1994, Đoàn doanh nghiệp Việt Nam gồm 150 nhà doanh nghiệp do tôi làm trưởng đoàn sang thăm Hoa Kì, tổ chức triển lãm tại thành phố San Francico tại bang California. Lần đầu tiên có đoàn doanh nghiệp lớn sang Mỹ trong điều kiện hai nước mới bắt đầu lập lại quan hệ ngoại giao, nên hai bên đều có sự thăm dò lẫn nhau. Ban đầu đoàn gồm 250 người, có một số quan chức cao cấp là uỷ viên Trung ương Đảng cùng đi. Nhưng sau vụ bắt sò huyết của Đại sứ nước ta, phía Mỹ đưa lên báo chí, phía ta sinh lo lãng, rút đoàn xuống còn 150 người. Tôi cũng thấy buồn vì đã chuẩn bị hàng năm cho cuộc triển lãm. Doanh nghiệp đăng kí rất đông, đã phải cắt đi rất nhiều, nay lại giảm 100 doanh nghiệp, rất khó nói. Tiền thu rồi, vé máy bay, visa chuẩn bị gần xong, nay cắt ai, để lại ai, cứ phải thương lượng từng người rất vất vả. Nhưng rồi mọi việc cũng ổn thoả.

Đội tiền trạm sang San Francico trước đã chuẩn bị sẵn. Doanh nghiệp đem hàng hoá sang trưng bày, những hàng cồng kềnh đã được chuyển qua tàu thuỷ sang trước. Thành phố San Francico từ ông Thị trưởng đến công chức toà Thị chính đều giúp đỡ tận tình. Vì là tuần trăng mật, lại là lúc một số người Việt Nam ở Mỹ bị “cú sốc”, hai bên kí hiệp định bình thường hoá quan hệ, họ tổ chức các nhóm chống đối đi khắp nơi xuyên tạc cuộc triển lãm, và vận động nhân dân Mỹ tẩy chay. Truyền đơn, báo chí xuyên tạc cuộc triển lãm được đăng trên một số báo nhỏ địa phương. Còn các báo lớn đều ca ngợi cuộc triển lãm này. Việc bảo vệ cho cuộc triển lãm cũng được phía Mỹ tổ chức chu đáo, từ FBI đến an ninh của bang và thành phố cũng được huy động bảo vệ cho triển lãm.

Ngày khai mạc, lực lượng cảnh sát Mỹ bố trí vòng trong vòng ngoài bảo vệ. Từ sáng sớm bọn phản động đã thuê 2 máy bay cỡ nhỏ, kéo 2 khẩu hiệu: “Đả đảo cộng sản”... bay lượn khắp bầu trời thành phố San Francico suốt buổi sáng. Một khoảnh đồi nhỏ cách cổng vào nhà triển lãm khoảng 50 mét, có 75 người, đeo băng, khẩu hiệu, cầm cờ ba que đả đảo triển lãm, đả đảo Dương Kì Anh, trưởng ban tổ chức triển lãm. Tôi sang hôm khai mạc nên họ không biết tên. Đến hôm bế mạc họ mới biết. Họ là những dân di tản, thất nghiệp, bọn phản động thuê mỗi ngày 75USD, nhưng phải đóng quĩ của bọn phản động 25USD chỉ còn 50 USD/ngày. Người nào trông cũng gầy còm, chỉ có vài 3 tên chỉ huy là to béo. Họ bị cảnh sát Mỹ bắt buộc đứng vào một khu vực có dây chăng chung quanh, ra ngoài vòng dây là cảnh sát đánh ngay, nên bọn họ chỉ đứng hô đả đảo.

Chỉ được buổi sáng ngày hôm đầu, còn hôm sau vừa hô vừa cười, đùa vài phút rồi thôi. Họ còn lân la nói chuyện với anh em triển lãm và xin phép được vào triển lãm mua cơm ăn. Anh em hỏi tôi, tôi bảo: “Cứ cho họ vào mua, nhưng phải có điều kiện chỉ được đi người không, không được mang biểu ngữ, cờ, khẩu hiệu. Chúng tôi lại phải điều đình với cảnh sát Mỹ cho phép họ vào. Cảnh sát Mỹ khen ta nhân đạo. Còn họ, họ không cho vào. Bọn này vào mua nhanh rồi đem ra cho nhau ăn, không dám làm gì, và phân trần: “Chúng tôi không có việc làm, đi làm thuê, họ bảo sao làm vậy”. Anh em tuyên truyền giáo dục họ và dẫn họ ra khỏi cổng triển lãm, giao cho cảnh sát Mỹ. Họ lại ra chỗ đứng đã được qui định.

Để bảo vệ an toàn cho triển lãm, chúng tôi được Thị trưởng chỉ thị cho xe Harley đưa đi, đón về, rất chu đáo. Có 2 xe mô tô loại rất lớn với 2 cảnh sát đưa đi, đưa về.

Từ cổng triển lãm ra đến nơi ô tô đỗ, có 4 cảnh sát, cưỡi 4 con ngựa loại rất to đưa chúng tôi ra xe, giao cho kíp cảnh sát đi xe mô tô đưa chúng tôi về nhà nghỉ.

Trong 4 ngày triển lãm, doanh nghiệp Mỹ và người Việt Nam ở Mỹ đến xem rất đông. Hàng hoá của ta đem sang triển lãm bán hết trong ngày thứ hai, thứ ba. Các doanh nghiệp phấn khởi.

Cuộc triển lãm suôn sẻ, được Bộ Ngoại giao ghi vào báo cáo năm 1999 là 1/10 sự kiện lớn về đối ngoại. Sau triển lãm tôi đến nói chuyện tại cuộc hội thảo ở thành phố Seatle, Bang Washington State, giữa Mỹ và Trung Quốc; rồi đoàn đến tham quan nhà máy sản xuất máy bay Boeing. Lần đầu tiên có đoàn Việt Nam đến nhà máy, ông Tổng giám đốc tiếp và báo cáo với đoàn, cho đoàn quay phim của ta muốn quay đâu cũng được. Bạn bảo đó là ngoại lệ cho đoàn Việt Nam. Đoàn chúng tôi được lên xem chiếc máy bay Boeing 777 đầu tiên đang đóng dở. Bạn giới thiệu đó là loại Boeing chở khách tối tân nhất. Gần đây ta đã mua loại máy bay này chở khách. Tôi đã đi 4 lần, thấy nó tối tân và rất tiện nghi. Nhưng chở được ít khách hơn loại Boeing 747. Rời Washington, chúng tôi đi thăm thành phố New York, thăm thủ đô Washington, thăm Las Vegas, các thành phố phía nam nước Mỹ. Tôi đã có tất cả 18 cuộc nói chuyện với doanh nghiệp, với nhân dân Mỹ và một số quan chức Mỹ. Cuộc đi khá vất vả, được cái giao thông ở Mỹ thuận lợi, đi máy bay cũng như đi xe bus ở ta, cứ 30 phút có một chuyến, không đi chuyến trước thì đi chuyến sau, chỉ phải chờ, còn các thủ tục lên máy bay cứ có vé là lên ngay, không phải hỏi han kiểm soát gì cả. Vì thủ tục ở Mỹ họ kiểm soát rất kĩ khi nhập cảnh. Còn đã vào nội địa, người trong nước và nước ngoài như nhau, đi lại bình thường.

Sau 5 năm, 1999 tôi sang Mỹ lần thứ 2 để gặp gỡ các doanh nghiệp Mỹ, do ông Chủ tịch Phòng Thương mại Mỹ Dô-na-hu mời sang để giải thích vì sao Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ chậm được kí kết. Tôi cũng làm việc với Phòng Thương mại Mỹ và một số địa phương. Trong chuyến đi này đoàn chúng tôi có 55 người, hầu hết là doanh nghiệp.

Chúng tôi đi thăm 3 nước. Trước hết là thăm Cuba, dự hội chợ triển lãm quốc tế Lahavana. Trong những ngày ở Cuba, tình hình chính trị ổn định, nhưng kinh tế phát triển chậm, do Mỹ cấm vận, mặt khác việc quản lí của các đồng chí Cuba có phần chặt chẽ. Thí dụ tư nhân ăn uống chỉ có 12 ghế ngồi là tối đa. Thừa một ghế là bị phạt. Chúng tôi phải đến 4 nơi mà cũng không đủ ghế cho đoàn ngồi ăn một bữa, lại phải trở về khách sạn quốc doanh. Riêng du lịch phát triển, giáo dục học sinh được bao cấp hoàn toàn. Lương cán bộ công nhân, viên chức rất thấp, Bộ trưởng 20USD/ tháng. Cán bộ công nhân, viên chức 10 USD tháng. Tôi thấy anh chị em phục vụ vất vả. Tôi nói với anh chị em trong đoàn mỗi ngày người phục vụ đến phòng hãy cho mỗi người 1 USD. Các đồng chí phục vụ rất phấn khởi, khen Việt Nam rất tốt. Mình cũng nghèo, nhưng thấy bạn lại còn khó khăn hơn. Tôi gặp 3 đồng chí Bộ trưởng, trao đổi nên mở rộng cải cách đổi mới. Và giới thiệu kinh nghiệm đổi mới Việt Nam cho các đồng chí và cán bộ nghe.

Ở Cuba 3 ngày, sang thăm Canada, ở Toronto 2 ngày, chúng tôi đi đường bộ sang Mỹ, qua thác Niagra Fall đẹp nhất ở Canada, ngay biên giới với Mỹ. Chúng tôi đi ôtô về New York. Trên đường đi chúng tôi ghé thăm một làng cổ, người gốc Hà Lan đã nhập cư vào Mỹ hơn 200 năm, có khoảng 300 gia đình. Những người gốc Hà Lan này vẫn theo cổ truyền không dùng bất cứ cái gì dùng đến điện. Nhà đốt đèn dầu, đi xe ngựa, không dùng ti vi, radio, ăn mặc áo dân tộc, nhà hầu hết là một tầng, ở vào một khu vực. Khách đến tham quan nơi đây rất đông. Cảm thấy đến đây như vào một thung lũng, vì chung quanh đó có nhiều nhà cao tầng. Tôi hỏi người hướng dẫn viên được trả lời: dân ở đây chỉ đi gần, khoảng 100 km trở về, họ đi xe ngựa, xe đạp, đi bộ, không đi ôtô, máy bay những phương tiện có liên quan đến điện. Thế giới thấy lạ, khách du lịch tới tham quan đông, nên họ sống bằng nghề dịch vụ du lịch.

Đến thủ đô Washington, làm việc và dự hội thảo ở trụ sở Phòng Thương mại Mỹ, đối diện với Nhà trắng. Cuộc hội thảo có khoảng 10 Thượng nghị sĩ và Hạ nghị sĩ cùng dự. Nhiều vị phát biểu mong muốn sớm có Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ để quan hệ kinh tế giữa hai nước được toàn diện. Các doanh nghiệp mong muốn sớm vào Việt Nam đầu tư. Tôi phát biểu một bài và giải đáp những việc cần phải làm để sớm có Hiệp định song phương về Thương mại giữa 2 nước.

Sau đó tôi được mời đến nói chuyện ở Trung tâm Nghiên cứu chiến lược và quan hệ quốc tế (CISIS), của Kissinger, Bresinky, Carter. Có 3 ông trợ lí Bộ trưởng Ngoại giao và nhiều quan chức Mỹ đến nghe. Sau bài phát biểu của tôi các bạn Mỹ hỏi 26 câu, hầu hết là có nội dung tốt, thiết thực cho quan hệ tốt đẹp Việt Mỹ, nhưng cũng có 4 câu hỏi như có phải Việt Nam không thực hiện được chủ nghĩa xã hội bằng kế hoạch hoá tập trung, nay phải quay sang kinh tế thị trường không? v.v... Tôi trả lời: “Người Mỹ là những người thích nói thẳng, tôi cũng thích nói thẳng, chỉ có nói thẳng chúng ta mới dễ gặp nhau để hợp tác lâu dài. Tôi tự giới thiệu với các ngài, tôi là một người cộng sản “nòi”. Tôi phải nói rằng kinh tế thị trường nay còn hiệu quả là do loài người nhiều thế hệ tạo ra. Tôi từ trong bụng mẹ đã làm kinh tế thị trường, vì mẹ tôi đang vận hành cơ chế thị trường ở nước tôi lúc đó Cho nên tôi sinh ra trong kinh tế thị trường, kinh tế thị trường đối với tôi không xa lạ. Trước đây chúng tôi muốn xây dựng CNXH thật nhanh, để có hạnh phúc cho toàn dân. Nhưng kết quả không như mong muốn, không có hiệu quả, chúng tôi bỏ nó, trở lại vận dụng kinh tế thị trường do cha ông để lại, để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Có học thêm kinh nghiệm của các nước, như Mỹ chẳng hạn, có một nền kinh tế phát triển, vận dụng qui luật kinh tế có khác với những nước đang phát triển và có nhiều kinh nghiệm hay. Đó là sự trao đổi kinh nghiệm chung giữa các nước với nhau”.

Người Mỹ có tính hay “hợm mình” cái gì cũng muốn hơn người. Tôi nhớ lại dịp họp các doanh nghiệp, khối ASEAN ở khách san New World năm 2001, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam có mời Thượng nghị sĩ John Kerry đến nói chuyện, đi cùng có đại sứ Mỹ Peterson... Nội dung bài nói rất hay. Nhưng đến phần cuối ông John Kerry nói: “Nước Mỹ phải lãnh đạo thế giới, nhưng đến nay chưa làm được nhiều”. Khi phát biểu lời cảm ơn, tôi đánh giá cao bài phát biểu của ông Kerry, những đoạn cuối tôi có ý kiến là: “Không nên dùng từ lãnh đạo thế giới mà là “hướng dẫn” thế giới. Vì dùng từ lãnh đạo thế giới chắc nhiều nước không đồng tình với Mỹ. (Hội nghị vỗ tay rất to, nhất là các đại biểu Malayxia). Nước Mỹ là nước giàu nhất thế giới, rất có nhiều điều kiện hướng dẫn giúp đỡ các nước nghèo. Khi được giúp đỡ một cách chân thành, họ thoát khỏi khó khăn, họ sẽ biết ơn nước Mỹ. Lúc đó nước Mỹ không cần nói lãnh đạo, họ cũng đi theo Mỹ và đặt nước Mỹ lãnh đạo họ. Như thế có tốt hơn không.”. Tôi thấy ông Kerry hơi ngượng, tôi nói thêm: “Nếu cách nói đó là thói quen của người Mỹ, thì các vị thông cảm với tôi”. Tôi theo dõi từ đó, các quan chức cao cấp của Mỹ cũng thấy ít nói đến “từ” này. Nay ông John Kerry là ứng cử viên Tổng thống của đảng dân chủ. Nếu ông trúng cử chắc ông sẽ bỏ hoàn toàn cụm từ “lãnh đạo thế giới”.

Những cuộc đi công tác địa phương đáng nhớ

Thời kì công tác ở Trung ương, tôi đã đi khắp các tỉnh thành phố trong nước, có tỉnh thành phố tôi đến làm việc nhiều lần. Tỉnh, thành phố nào tôi cũng rất có cảm tình. Các đồng chí lãnh đạo cũng như các đơn vị tôi đến thăm hoặc làm việc, đều để lại trong tôi nhiều kỉ niệm không bao giờ quên, những án tượng sâu sắc về con người và cảnh vật. Đến nay tôi đã về hưu, nhưng các địa phương vẫn quan tâm thăm hỏi, có tỉnh hàng năm đều có thư mời về thăm, hoặc nghỉ ở những danh lam thắng cảnh của địa phương, làm cho tôi suy nghĩ, luôn luôn lúc nào cũng thấy trách nhiệm với đất nước, với nhân dân.

Tôi không phải là nhà thơ uyên bác gì, nên không dám đến đâu cũng “vạch đá đề thơ”. Nhưng có vài lần ở ba miền, nhất là những năm 1987-1988, tôi về công tác ở tỉnh Đồng Tháp, đến đâu nhân dân cũng mến mộ cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh ra Hồ Chủ tịch. Nhiều người kể về công lao của cụ Phó Bảng, xây dựng phong trào cách mạng ở Cao Lãnh. Có người nói: “Chúng tôi chưa biết Bác Hồ thế nào, nhưng thấy cụ Phó Bảng là chúng tôi quý Bác Hồ”. Tôi cảm động mới làm đôi câu đối thờ cụ, nói lên tính kết nối giữa cụ Phó Bảng với Bác Hồ trong sự nghiệp xây dựng phong trào cách mạng và hoàn thành sự nghiệp cách mạng của cha con cụ đối với dân tộc Việt Nam. Đôi câu đối đó lan toả đi một số nơi, nên một số tỉnh tôi đến làm việc các đồng chí đề nghị làm cho một đôi để đặt ở nơi có ý nghĩa. Tôi nghĩ đến đâu cũng viết câu đối thì chẳng hay gì, sinh nhàm chán. Tháng 41989 tôi đến thăm Nghĩa Bình, đến thăm huyện Tây Sơn thờ vua Quang Trung. Tôi xúc động làm một đôi câu đối để ở đền thờ với nội dung:
“Bát thập tuế khởi sự binh nhung bất tri chiến bại.
Tam cửu niên băng hà cường tặc do khuất uy linh”

(Nghĩa là: “năm mười bảy tuổi, khởi binh đánh giặc, không biết thua là gì! Ba mươi chín tuổi mất, giặc dữ còn sợ oai nghiêm”).
Trước khi viết chính thức tôi có nhờ cụ Minh nhuận sắc. Cụ Minh bảo tôi bỏ “Thanh, Xiêm một hữu thất kinh” (quân Thanh quân Xiêm chưa hết sợ) vì nay ta đã hoà nhập với thế giới, những từ nhắc lại quá khứ, nêu rõ tên, nên bỏ. Cụ thay vào đó là: “Cường tặc do khuất uy linh”. Tôi đồng ý với cụ Minh.

Tháng 10-1989 tôi lên làm việc với tỉnh Vĩnh Phú, các đồng chí lãnh đạo tỉnh có đề nghị tôi viết một đôi câu đối ở đền Hùng.

Tôi nghĩ ở Nam Bộ tôi đã viết một đôi câu đối ở lăng cụ Phó Bảng, miền Trung có đôi câu đối ở đền thờ vua Quang Trung, ở miền Bắc cũng cần có một đôi câu đối của Thầy đồ “Đổi mới” xứ Đông để thờ Tổ. Tôi viết:
“Tứ thiên niên Hồng Lạc cố cương giang sơn thế việt
Lục thập triệu tử tôn cách mạng chế độ nhật tân”

(Nghĩa là: “bốn nghìn năm Hồng Lạc, sông núi, bờ cõi vẫn giữ vững, con cháu người Việt ở đời đời, chữ “Thế Việt” còn có nghĩa là Vượt đời”...)
Sáu mươi triệu con cháu làm cách mạng và đang đổi mới, chữ “Nhật tân” trích sách đại học của Tăng tử “Cẩu nhật tân nhật nhật tân, hựu nhật tân”. (đã mới rồi, ngày ngày càng đổi mới, tiếp tục đổi mới).

Tôi lại nhờ cụ Minh nhuận sắc, cụ đồng ý không thêm bớt chữ nào. Tôi đọc để xin ý kiến anh Trường Chinh, anh Nguyễn Văn Linh, hai anh đều tâm đắc. Anh Trường Chinh thích vế thứ nhất, nhất là chữ “Thế Việt”. Anh Nguyễn Văn Linh thích vế thứ hai, nhất là chữ “nhật tân”. Câu đối được treo ở những nơi trân trọng, những cũng có nhiều ý khen chê. Khen thì nhiều, chê ít nhưng “to miệng”. Đến mức Giám đốc Sở Văn hoá Thông tin Vĩnh Phú phải hạ xuống cất vào kho. Sau Bí thư tỉnh uỷ Vĩnh Phú, đồng chí Nguyễn Văn Đăng bảo cứ treo trên đền chính và đề nghị con cháu cả nước ai có câu đối hay cứ đem đến đền thờ Tổ sẽ treo hết. Còn Bí thư Tỉnh uỷ Đồng Tháp, đồng chí Tư Hữu nói thẳng với mấy người đến chê bai, rằng: các đồng chí giỏi thì làm đem đến đây tôi sẽ khắc trên bia đá, còn chê thì ai chê chẳng được. Chúng tôi cần làm, chứ
không cần nói.

Câu đối ở đền thờ vua Quang Trung, ở Tây Sơn, Bình Định, chắc ở xa, ít người đến nên chưa thấy có ý kiến gì. Thế mới biết, làm người khó lắm! Cổ nhân đã nói: “Tố vi nhân nan, tận chỉ bút đầu can” (làm người là khó, viết 4 chữ đó hết giấy mực vẫn chưa hết khó) và đặt ra 4 câu thơ để nhắn nhủ người đời:
Xảo yếm đa lao, chuyết yếm nhàn.
Thiện hiềm nhu nhược, ác hiềm ngoan
Phú tao tật đố, bần tao tiện
Cần viết tham lam, kiệm viết kiên....

(Nghĩa là: “Khéo tay chê là vất vả, vụng về chê là lười biếng
Làm điều thiện, chê là nhu nhược; làm điều ác, bảo là ngoan cố.
Giàu có bị ghen ghét, nghèo chê là ti tiện.
Cần mẫn bảo là tham lam, tiết kiệm chê là keo kiệt”...)
Cho nên người đời mới than rằng: “Tối nhân nan”.

Đó là những cuộc đi công tác nước ngoài và trong nước mà tôi có nhiều ấn tượng sâu sắc nhất.

Bất cứ cuộc đi nước ngoài hay trong nước đối với tôi đều rất bổ ích và giữ lại nhiều kỉ niệm sâu sắc không bao giờ quên, với tình đồng chí, tình bạn bè, tình cán bộ với nhân dân, như nguồn cổ vũ động viên tôi suốt đời.

Đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn với Hải Phòng

Đồng chí Lê Duẩn trong những năm 1930 đã hoạt động cách mạng ở Hải Phòng và năm 1931 đồng chí bị thực dân Pháp bắt ở Ngõ Đá, Hải Phòng. Bởi vậy đồng chí Lê Duẩn có nhiều kỉ niệm với nhân dân và Đảng bộ Hải Phòng.

Sau những năm ra tù lần thứ nhất ở Côn Đảo về, đồng chí tiếp tục hoạt động ở miền Trung và các tỉnh miền Nam. Vào những năm 1939-1940 với cương vị là Uỷ viên Thường vụ Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ, Uỷ viên Thường vụ Phan Đăng Lưu và Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định thành lập mặt trận phản đế Đông Dương, thay Mặt trận Dân chủ, chuyển hướng cuộc đấu tranh cách mạng sang một thời kì mới.

Năm 1940 đồng chí lại bị bắt và bị đày ra Côn Đảo lần thứ hai cho đến khi Cách mạng tháng Tám 1945 thành công. Đồng chí được Đảng và Chính phủ đón về đất liền, tham gia cuộc kháng chiến ở Nam Bộ.

Tôi là bậc hậu sinh, biết tiếng đồng chí Lê Duẩn bắt đầu từ khi tôi bị bắt và đày ra Côn Đảo, được các đồng chí Nam bộ kể về anh Ba (tên thân mật của đồng chí Lê Duẩn), tôi mới hiểu anh Ba qua những câu chuyện kể về tài năng và đức độ của anh trong tù, trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở miền Nam. Một con người thông minh, sáng tạo, đã cùng Trung ương Đảng và Bác Hồ đưa cách mạng ở Nam Bộ vượt qua bao nhiêu khó khăn của thời kì “trứng nước” đến ngày thắng lợi. Anh đã hoạt động trên mảnh đất đầy gian khổ nơi có nhiều xu hướng chính trị và đạo giáo phúc tạp, nơi quân Anh rồi đến quân Pháp trở lại xâm chiếm nước ta lần thứ hai, ngay sau ngày nước ta tuyên bố độc lập 2-9-1945. Với tài trí thông minh, anh được quân, dân Nam Bộ gọi là “ông 200 bougies” hoặc “ông 500 Bougies”. (Sáng như bóng đèn điện 200-500 nến).

Tôi chỉ được nghe kể thế thôi, còn con người cụ thể thì mãi đến năm 1957 anh ra Bắc và xuống Hải Phòng nói chuyện với Hội nghị cán bộ, tôi mới biết anh. Lúc đó tôi chưa phải là cán bộ chủ chốt của Hải Phòng. Nhưng do muốn tìm hiểu một con người sẽ kế thừa sự nghiệp của Bác, khi giải lao tôi đến gần anh, hỏi chuyện việc anh ra miền Bắc gặp nhiều khó khăn ra sao. Anh thân mật kể cho nghe. Chúng tôi vây quanh và đặt ra nhiều câu hỏi. Anh sẵn sàng trả lời, vừa vui vẻ, vừa thân mật. Thấy anh khoẻ mạnh, tươi cười, nhưng hay nói nhanh, giọng Quảng Trị pha Nam Bộ rất khó nghe. Riêng tôi ở nhiều với anh em ba miền, nên nghe khá hơn, đôi khi phải “dịch” lại cho một số anh em cán bộ Hải Phòng có lúc nghe mà không hiểu được gì cả. Có anh em như đồng chí Hải, cán bộ Tuyên huấn, bảo chẳng ghi chép được gì. Nhưng tất cả vẫn thấy vui, vì được gặp anh Ba lần đầu, thái độ anh cởi mở, gần gũi anh em.

Từ đó, hàng năm anh thường xuống Hải Phòng 2, 3 lần để gặp gỡ cán bộ, thăm nội ngoại thành, nhất là từ khi chị Bảy Vân về công tác ở báo Hải Phòng, ba cháu nhỏ cũng về Hải Phòng, nên anh Ba luôn tranh thủ những ngày nghỉ về thăm chị Ba với các cháu. Mỗi lần về, anh đều dành thời gian thăm phong trào. Giữa những năm 60, tôi phụ trách Liên hiệp xã Tiểu công nghiệp và Thủ công nghiệp. Trong những buổi ra ngoại thành, sang huyện Thuỷ Nguyên, Thành uỷ giao cho tôi dẫn anh đi xem. Từ những chuyến đi này, tôi có điều kiện tiếp xúc, gần gũi với anh qua câu chuyện đến thăm các cơ sở.

Tôi nhận thấy người chuẩn bị thay Bác Hồ, không phải chỉ giỏi chống ngoại xâm, mà có tầm nhìn về kinh tế rất sáng suốt. Từ đó bắt đầu tôi mến anh Ba, và luôn muốn gợi những ý kiến suy nghĩ của mình để anh Ba giải đáp.

Có một số lần xuống xem hợp tác xã dệt thảm len xuất khẩu ở Thuỷ Nguyên, một lần xem hợp tác xã may mặc ở nội thành, một lần xem hợp tác xã nông nghiệp kiêm làm nghề thủ công ở An Hải, đã cho tôi ấn tượng sâu sắc về tư duy kinh tế của anh Ba.

Đến hợp tác xã dệt thảm len gia công xuất khẩu, anh hỏi tôi sao lại tập trung khung dệt cồng kềnh thế này vào một nơi? Sao không để ở từng nhà cho thuận tiện đi lại, năng suất sẽ cao, không phải làm thêm nhà để khung cửi? Còn tập trung chỉ là cơ khí sản xuất theo dây chuyền thì người ta mới tập trung... Đến hợp tác xã may mặc anh Ba còn chất vấn tôi: Tại sao máy khâu mà cũng vào hợp tác xã, để người ta làm cá thể có hơn không? Những câu hỏi liên quan đến đường lối làm ăn tập thể, tổ chức hợp tác xã mà anh Ba hỏi như vậy khó trả lời quá! Tôi báo cáo anh Ba đó là theo hướng dẫn chỉ đạo của Trung ương. Anh Ba vặn lại tôi: “Các đồng chí ở cơ sở sát thực tế, trên không sát, phải đề xuất chứ. Cứ làm mà không có ý kiến gì là không được”. Tôi suy nghĩ quá! Nhưng lúc này chỉ nên vâng, dạ, còn biết nói sao đây, khi phong trào hợp tác hoá đang lên mạnh. Đến hợp tác xã dệt thảm len xuất khẩu, có em bé gái 16 tuổi đang dệt thảm, anh Ba hỏi cháu có biết đồng đô-la là gì không? Cháu ngớ người ra. Tôi vội thưa với anh, tôi cũng chưa nhìn thấy đồng đô-la... Anh Ba phân tích ngay, làm xuất khẩu mà không hiểu đồng đô-la là gì là không được. Phải cho các cháu nó biết giá trị của đồng đô la. Anh vỗ vai tôi và bảo: “Còn đồng chí càng phải biết đồng đô-la là gì! Có thế mới hăng say sản xuất, làm ra hàng xuất khẩu để có đô-la xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Thật là ý “mới toanh” tôi thấy ở một nhà chính trị lỗi lạc nói ra. Tôi thấy thích mà cũng thấy lạ tai, vì các đồng chí khác kiêng kị, thành kiến với đồng đô-la, còn anh Ba lại say sưa nói về nó. Tôi nghĩ đây là con người có một tầm tư duy kinh tế khác thường. Tôi nghĩ sao anh Ba không làm cho các đồng chí Uỷ viên Bộ Chính trị khác nghĩ như anh nhỉ?

Khi đến hợp tác xã nông nghiệp, anh hỏi tôi: “Đồng chí có biết thế nào là sản xuất lớn không?” Tôi đang ngập ngừng anh Ba nói ngay: “Sản xuất lớn không phải là tập trung vào hợp tác xã để nuôi, mà mỗi gia đình nông dân nuôi 40-50 con lợn, hàng trăm con gà thế là sản xuất lớn... Việc gì mà ngồi túm tụm hàng chục người thế kia thái rau, làm sao có năng suất, có hiệu quả được...”.

Qua những lần đưa anh Ba đi thăm phong trào hợp tác xã sản xuất, tôi thấy lí giải nhiều điều rất sáng sủa để phát triển sản xuất, xây dựng đất nước. Tôi không hiểu tại sao các ngành Trung ương không nói theo cách nói của anh, và theo ý kiến của anh? Tôi tiếp tục theo dõi và suy nghĩ về cái đầu sáng 500 nến trong chiến tranh chống Pháp và nay đang chống Mỹ, cái đầu ấy thể hiện trong kinh tế cũng rất sáng tạo, có lẽ sáng hơn 500 nến nữa.

Đến năm 1979 tôi làm Chủ tịch UBND Thành phố, tôi có điều kiện làm việc trực tiếp với anh Ba. Trong nhiều buổi đưa anh đi thăm cơ sở sản xuất, anh có nhiều gợi ý rất sáng, truyền cảm, truyền ý thức tự lực tự cường cho những người đi theo. Câu nói cửa miệng và đầu tiên khi bắt đầu câu chuyện thường là anh nhắc: Thành phố, Thành uỷ phải làm gì cho dân, phải hiểu được dân cần gì? Thành uỷ là phải lo cho dân, mỗi người ăn một năm bao nhiêu thịt, cá, bao nhiêu quả trứng. Thành uỷ phải biết hàng ngày nhân dân ăn gì? Chứ Thành uỷ cũng chung chung như Trung ương thì Thành uỷ làm được gì? Hoặc mỗi tỉnh, thành phố, phải coi mình như một nước nhỏ mà lo toan thay Trung ương. Thế giới có nước người ta chỉ có 1.000 km2 với mấy trăm nghìn dân, bé hơn Hải Phòng, người ta còn làm giỏi như thế. Thành uỷ Hải Phòng phải biến thành phố là Hồng Kông, Singapore thứ hai... Lần nào anh cũng nhắc, cũng nói một cách tâm huyết, thật thà, thẳng thắn với chúng tôi.

Trong những buổi làm việc với anh Ba, sau những ý kiến trực tiếp vào vấn đề chính xong rồi, anh Ba đều có những suy nghĩ lớn cho đất nước, muốn truyền đạt cho thế hệ sau, lớp trẻ chúng tôi. Trong các buổi nói chuyện anh rất dân chủ và lắng nghe ý kiến mọi người. Có những ý kiến anh tranh luận lại, nhưng thái độ cởi mở, thân thiết, không áp đặt.

Có lần tôi làm việc với anh ở Đồ Sơn, khi công việc chính đã được ý kiến anh chỉ đạo, anh nói sang quan hệ giữa nước ta và Trung Quốc. Rồi anh nói văn hoá của ta cao hơn Trung Quốc, và phê phán Khổng Tử coi thường cả mẹ. Tôi hỏi anh Khổng Tử nói ở chỗ nào? Anh bảo Khổng Tử nói: “Phụ nhân nan hoá” (người phụ nữ khó cải hoá). Rồi anh nói văn hoá của ta là: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương”... “Bầu ơi thương lấy bí cùng”... Còn Khổng Tử nói: “Kỉ số bất dục, vật thi ư nhân”, còn ta thì “Mình vì mọi người, mọi người vì mình” là cao hơn văn hoá Trung Quốc. Rồi anh phê bình Mao Trạch Đông và Khổng Tử cùng là “một giuộc”.

Tôi suy nghĩ tìm câu nói để anh Ba hiểu rõ về triết học của Khổng Tử khác với Mao Trạch Đông. Khi anh Ba dừng phát biểu, tôi thưa với anh:

- Mao Trạch Đông phê bình Khổng Tử mạnh mẽ lắm!

Anh Ba đứng dậy hỏi tôi:

-Ở chỗ nào?

Tôi thưa với Anh là sau khi Lâm Bưu chết, Nhân dân Nhật báo Bắc Kinh có 7 bài liền: “Phê Lâm, phê Khổng”. Anh lại hỏi: “Nội dung thế nào, sao tôi không biết?” Tôi báo cáo tường tận câu chuyện này, trong 7 bài báo trên để anh Ba rõ: “Vấn đề là khi sinh thời, Lâm Bưu có treo hai chữ đại tự ở giữa nhà mình, hai chữ đó là “Khắc Kỉ”, ý Lâm Bưu muốn mượn lời Khổng Tử để phê phán Mao Trạch Đông. Trong sách Luận Ngữ chép, khi học trò giỏi nhất của Khổng Tử là thầy Nhan Hồi hỏi Khổng Tử, làm thế nào thì làm được điều “Nhân” (”Nhan tử vấn nhân, Khổng Tử viết: Khắc kỉ phục lễ vi nhân”), Khổng Tử trả lời là phải nghiêm khắc với mình, thực hiện đúng lễ (pháp luật), thì mới làm được điều “nhân”. Sau khi Lâm Bưu chết, Mao Trạch Đông phê bình Lâm Bưu và phê bình Khổng Tử. Vì Lâm đã lấy câu của Khổng Tử dạy Nhan tử để phê phán gián tiếp Mao Trạch Đông là người coi thường pháp luật, điều lệ, nghĩa là kẻ bất nhân. Nên Mao phê cả hai: Lâm và Khổng. Tôi nói xong, anh Ba hỏi tôi: “Đồng chí học đến gì?”. Tôi thưa với anh là tôi đã học kĩ Tứ thư, còn Lục kinh, tôi học Kinh thi và Kinh Xuân Thu (Kinh trị quốc của phong kiến Trung Quốc). Còn Kinh Dịch, Kinh Lễ, Kinh Thư, Kinh Nhạc, tôi chỉ đọc qua thôi. Anh nói ngay: Tôi chỉ đọc Luận ngữ, Mạnh Tử (hai bộ sách này thuộc về Tứ thư gồm: Luận ngữ, Mạnh Tử, Đại học, Trung dung). Anh vui vẻ nói: “Thôi nghỉ ăn cơm, sáng mai đồng chí ra nói tiếp về Khổng Tử...”.

Sáng hôm sau tôi ra Đồ Sơn tiếp câu chuyện còn lại về Khổng Tử. Trước khi bàn đến Khổng Tử, anh Ba lại nhắc tôi những điều suy nghĩ sâu sắc của anh về xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Anh trăn trở nhiều điều của các nước anh em, nhất là Liên Xô và lí luận về chuyên chính vô sản, làm chủ tập thể... Rồi anh dừng lại, bảo tôi nói tiếp về Khổng Tử. Tôi báo cáo tiếp với anh về nhận thức của tôi đối với Khổng Tử, Tôi nói: “Khổng Tử sinh ra cách đây 2.500 năm, trong một chế độ phong kiến tập quyền mạnh ở Trung Quốc, nên Khổng Tử cũng không thoát khỏi hệ tư tưởng đó. Hơn nữa Khống Tử đã viết ra Kinh Xuân Thu để cai quản đất nước theo Triết học “Quân quân, Thần thần, Phụ phụ, Tử tử”. Nhưng Khổng Tử là nhà triết học vĩ đại lấy nhân nghĩa làm đầu, từ bỏ mọi quyền cao chức trọng, đi dạy học để giáo hoá nhân dân theo triết lí của mình. Còn sách Luận ngữ gồm 10 tập (đại toàn). Khổng Tử chỉ nói hai câu là mất lập trường giai cấp, theo quan điểm của ta hiện nay. Anh Ba hỏi 2 câu đó là gì. Tôi báo cáo anh là: “Phụ nhân nan hoá” như anh đã phê bình là Khổng Tử coi khinh cả mẹ. Còn câu thứ hai là: “Dân khả sử vi chi, bất khả sử tri chi” nghĩa là người dân chỉ sai khiến họ làm, còn không sai khiến họ học được, ý nói chỉ có người quân tử mới dạy bảo cho biết được. Trong điều kiện cách đây 2.500 năm ta cũng nên thông cảm với Khổng Tử.

Trong lễ giáo phong kiến, người phụ nữ Trung Quốc phải bó chân, chỉ ở trong nhà thì đúng là “nan hoá” thật. Anh Ba nghe nhưng không nói gì. Tôi nói tiếp ngay điều kiện bị trói buộc của thuyết duy tâm, duy thần, thế mà khi học trò của Khổng Tử hỏi về thờ thần linh, lần thứ nhất ông trả lời: “Vị năng sự nhân, yên năng sự quỉ”. (Thờ người chưa xong, làm sao thờ được quỉ thần). Lần thứ hai ông trả lời: “Kính nhi viễn chi” (Kính nhưng nên xa quỉ thần). Đó là tư tưởng của Khổng Tử có tiến bộ. Anh Ba đồng ý với tôi. Tôi phân tích thêm triết học của Khổng Tử ảnh hưởng rất lớn đến Việt Nam, nhất là điều nhân nghĩa. Chính do triết học phương Đông nổi tiếng ấy nên Nguyễn Trãi lấy nhân nghĩa thắng hung tàn, đã phá tan quân Minh, giúp Lê Lợi dựng nên nghiệp lớn. Còn cuộc chiến tranh Mỹ và Việt Nam, sau ta giải phóng miền Nam không có tắm máu như kẻ thù rêu rao, là ta kế thừa điều nhân nghĩa truyền thống của dân tộc, đã làm cho việc thống nhất đất nước, được nhanh chóng và ổn định. Tôi nói thêm: “Anh Ba được cả thế giới và trong nước ca ngợi là nhà chính trị, nhà quân sự và là nhà hiền triết, mới kế thừa sự nghiệp Bác Hồ giao cho thành công”.

Tôi thấy anh vui lên, không có phản ứng gì, vì tôi còn e rằng anh còn thành kiến với triết học của Khổng Tử. Nhân đó tôi nói luôn: “Khổng Tử nói: “Kỉ sở bất dục, vật thi ư nhân” (nếu ta không muốn, ắt người chẳng ưa, không bắt người khác làm điều mình không muốn). Đó là lời nói khuyên nhủ cho dân trí còn thấp. Khi dân trí cao mới có thể làm được “Mình vì nọi người, mọi người vì mình”. Anh Ba không nói gì thêm. Từ những buổi đàm đạo về Khổng Tử với anh Ba, tôi theo dõi thấy anh Ba không phê phán Khổng Tử nữa và cũng không nhắc đến văn hoá ta cao hơn Trung Quốc.

Năm 1979, khi khởi sự bàn bạc việc khoán sản phẩm trong nông nghiệp với anh Bùi Quang Tạo, Bí thư Thành uỷ, chúng tôi bàn nhau kì này làm phải có kết quả để giải quyết vấn đề lương thực cho toàn quốc. Cần phải khẩn trương và thận trọng, tránh thất bại. Chúng tôi bàn nhau phải thuyết phục được 3 đồng chí chủ chốt trong Bộ Chính trị mới có thể thành công. Trước hết là anh Ba, anh Trường Chinh, anh Phạm Văn Đồng. Anh Tạo nói với tôi: Khó nhất là anh Trường Chinh, vì anh Trường Chinh đã phê bình nghiêm khắc tỉnh Vĩnh Phúc, và cũng đã phê bình anh Tạo ở Quốc hội. Tôi nói với anh Tạo: tôi sẽ chịu trách nhiệm báo cáo với cả 3 anh. Anh Tạo bảo nếu được như thế thì tốt và bảo tôi: “Anh thân với anh Ba, anh nên nói với anh Ba trước”.

Mấy hôm sau, tôi lên Hà Nội, xin gặp anh Ba. Anh Ba rất vui vẻ tiếp tôi. Tôi trình bày với anh 3 giờ liền toàn cảnh kinh tế Hải Phòng và cả nước, đặc biệt là kinh tế nông nghiệp sa sút, nhân dân bị đói lúa chín không gặt, đi buôn bán, mò cua bắt ốc kiếm ăn. Cán bộ công nhân viên chức Hải Phòng là khu vực phi nông nghiệp, có tháng thiếu lương thực hàng tuần, nhân dân kêu ca, ta táan... Cung cách quản lí hợp tác xã thì rong công, phóng điểm, tham nhũng. Nông dân đặt ca dao, hò vè phê phán lãnh đạo hợp tác xã như: Mỗi người làm việc bằng hai, để cho chủ nhiệm mua đài mua xe; mỗi người làm việc bằng ba, để cho chủ nhiệm làm nhà xây sân; trâu xanh ăn cỏ, trâu đỏ ăn gà v.v... Nghe xong anh Ba đứng dậy nói: “Tôi đồng ý. Làm ngay, làm ngay, không phải hỏi ai nữa...”, rồi anh phân tích cho tôi nghe về quản lí kinh tế. Mình từ sản xuất nhỏ đi lên, phải biết cách làm cho hiệu quả. Cứ áp đặt cách làm của người ta vào nước mình thì khó thành công lắm! Giáo điều là rất nguy hiểm. Tôi mừng quá, xin phép anh ra về, anh còn dặn: “Về bàn với cấp uỷ làm ngay, tôi sẽ xuống xem...” Tôi về báo cáo với anh Tạo. Anh Tạo vẫn chưa vui, tỏ vẻ vẫn lo lắng. Anh nói chỗ anh Trường Chinh, nếu phản đối là khó đấy. Tôi nói: “Tôi hiểu... nhưng được anh Ba đồng ý, ta cứ đem ra Ban Thường vụ và Thành uỷ bàn. Tôi sẽ báo cáo anh Trường Chinh xem ra sao. Chắc anh Trường Chinh cũng thấy rõ tình hình nông nghiệp, sau 15 năm sự việc ở Vĩnh Phúc, tư duy của anh Trường Chinh chắc cũng có sự thay đổi...”.

Ý kiến anh Ba đã giúp chúng tôi thêm quyết tâm thay đổi cách quản lí trong nông nghiệp. Anh đã chỉ đạo Ban Bí thư, mặc dù còn nhiều trở ngại, nhưng tháng 1-1981 anh Lê Thanh Nghị, Thường trực Ban Bí thư đã kí chỉ thị số 100 về khoán sản phẩm trong nông nghiệp đến nhóm lao động và xã viên lao động (thực chất là khoán hộ), mở đầu kỉ nguyên mới trong quản lí kinh tế, không những trong sản xuất nông nghiệp mà cả trong các lĩnh vực khác, đánh dấu bước đột phá cho thời kì đổi mới của Hải Phòng và cả nước.

Sau vụ lúa khoán đầu tiên, tháng 10-1980, anh Ba xuống tận hợp tác xã ở Hải Phòng xem kết quả. Anh đến hợp tác xã Trường Thành, Trường Sơn, các cánh đồng của Thuỷ Nguyên, An Lão, Kiến Thuỵ... Anh rất vui, động viên mọi người làm ra thóc gạo đủ ăn, và còn để xuất khẩu nữa...

Mỗi lần anh về thăm Hải Phòng, tôi có dịp làm việc với anh, càng thấy anh lúc nào cũng suy nghĩ để tìm ra giải pháp phát triển kinh tế đất nước. Đặc biệt anh chú ý nghiên cứu lí luận. Trong 2 năm tôi học tập lí luận ở trường Nguyễn Ái Quốc (khoá năm 19691971), những ngày anh làm việc ở Hà Nội, chiều thứ bảy hàng tuần, anh thường xuống Trường gặp giáo viên, học sinh trao đổi thảo luận.

Anh nêu những ý kiến mới ra để mọi người tham gia ý kiến. Tôi đã quen với cách làm của anh, nên trong những buổi làm việc xong ở Hải Phòng, tôi thường đem những vấn đề lí luận ra hỏi anh. Có lần tôi hỏi anh: Sao lại đặt vấn đề “Làm chủ tập thể” mà không đặt vấn đề “dân chủ”? Anh phân tích cho tôi nghe hàng giờ. Anh nói: “Dân chủ tập thể” nó thay cho “chuyên chính vô sản”. Nay đất nước đã độc lập thống nhất, phải làm cho mọi người được làm chủ đất nước, làm chủ ở từng xã, từng phường, đơn vị sản xuất, đơn vị công tác v.v... Nếu cứ nêu khẩu hiệu “chuyên chính vô sản” thì khi mình cầm quyền, ta chuyên chính với giai cấp phi vô sản, gây ra xích mích dân tộc suốt thời kì nọ sang thời kì kia. Khi xưa giai cấp tư sản chuyên chính với vô sản, nay họ mất quyền lại tìm cách chống chúng ta, phục hồi lại chuyên chính tư sản, cứ thế mãi... Ta phải biết giai cấp công nhân lãnh đạo để giải phóng dân tộc, giải phóng cho mọi giai cấp, mọi tầng lớp, làm cho mọi người được làm chủ đất nước, làm chủ xã hội... Như vậy tầm cao, tầm nhìn của giai cấp công nhân hơn hẳn quá khứ. Nên không cần nêu “chuyên chính vô sản” làm gì. Vấn đề này có ý nghĩa đoàn kết trong nội bộ Đảng, trong toàn dân. Đưa vấn đề “làm chủ tập thể”, những đồng chí muốn duy trì khẩu hiệu “chuyên chính vô sản” cũng dễ chấp nhận, tạo ra sự nhất trí cao. Còn dân chủ cho mọi người sẽ thực hiện từng bước, nó thuận với mọi người, đã được làm chủ tập thể rồi thì dân chủ cho mọi người là điều tất yếu phải đến. Anh nói đi nói lại rất say sưa như một cuộc giảng bài được học trò chú ý lắng nghe. Tôi cũng thấy phấn khởi về cách lập luận và lí giải của anh. Tôi thấy trong tư duy của anh đã chứa đựng nội dung dân chủ rất sâu sắc và tế nhị.

Trong các buổi đưa anh đi thăm cơ sở, anh kể lại cho tôi nghe những cuộc vận động nhân dân làm cách mạng. Cùng ở, cùng làm, cùng sống với dân, tôi cảm thấy lúc nào anh cũng đang sống trong lòng dân. Như câu chuyện mua gia cầm, mua thịt lợn nghĩa vụ... Tem phiếu phát cho dân, nhưng không có hàng bán, con phe tem phiếu cấu kết với mậu dịch viên xấu tuồn hàng ra ngoài, tôi kể cho anh nghe, và đưa anh đi xem thực tế ở các cửa hàng. Xem xong anh bảo tôi phải tìm cách quản lí khác. Tôi đề nghị bỏ nghĩa vụ của nông dân phải bán gia cầm, thịt lợn cho nhà nước; bỏ tem phiếu... Anh đều nhất trí rất nhanh. Anh nêu những vấn đề phải giải quyết đời sống cho cán bộ công nhân viên chức, trước hết là nâng cao năng suất chất lượng, hạ giá thành với việc nâng lương, rất nhiều ý kiến phong phú.

Riêng vấn đề giá, anh có nhiều ý kiến khác tôi. Nhưng qua nhiều lần trao đổi, anh nhấn mạnh giá trị sử dụng của hàng hoá, còn tôi nhấn mạnh đến qui luật cung cầu, sản xuất ra hàng hoá phải tiêu thụ được, nghĩa là chất lượng và giá cả phù hợp với túi tiền của nhân dân. Cuối cùng anh chấp nhận. Vì giá trị sử dụng cũng nhằm phục vụ người tiêu dùng, nhưng chỉ một mặt thôi thì lấy gì để tái sản xuất mở rộng xã hội chủ nghĩa, nên phải chú ý cả cung lẫn cầu. Anh đồng ý. Như vậy anh đã chấp nhận kinh tế thị trường với quy luật cung cầu.

Anh rất quan tâm đến phát triển công nghiệp, đặc biệt là ngành luyện kim và cơ khí. Anh luôn luôn coi ngành cơ khí là then chốt, là xương sống của nền kinh tế. Nên trong tiểu luận Dưới lá cờ vẻ vang… anh đặc biệt nêu vai trò của ngành cơ khí. Tôi rất đồng tình với anh cách đặt vấn đề của một nước đang phát triển. Nhưng lấy tiền đâu ra để xây dựng ngành công nghiệp? Anh mới có hướng chung về tích lũy XHCN, còn biện pháp vẫn hạn hẹp. Tôi nêu nhiều ý kiến đề xuất với anh, nói chung anh nhất trí, duy chỉ có vấn đề xuất khẩu sắt thép phế liệu để tích lũy, là anh gạt đi ngay một cách kiên quyết, mặc dù lúc đó Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã cho Hải Phòng xuất chuyến đầu tiên 2 vạn tấn sắt thép phế liệu.

Tôi phải lấy thực tế để thuyết phục anh. Trong các chuyến thăm cảng, thăm các đống sắt thép phế liệu, ca nô, sa-lan giải bản, để dọc bờ sông Cấm, từ bến Bính đến Quán Toan, tôi đưa anh đi xem. Đống sa-lan hỏng chất như đống núi con bên vụng Quynh bờ sông Cấm. Tôi cho dừng xe, dùng một cây gậy nhỏ, đập vào thành sa-lan và đống sắt thép phế phẩm, chúng bị oxy hoá gẫy tả tơi, thủng từng lỗ lớn Anh Ba đứng nhìn và suy nghĩ. Lúc ấy tôi mới nói: “Thép phế liệu lò luyện kim trong nước dùng rất ít, cứ để sau 6 tháng là oxy hoá mất 50%, vì nó là loại phế phẩm để ngoài trời, lại bên dòng sông nước mặn”. Anh Ba hỏi tôi làm thế nào để bảo quản được, để dùng cho luyện kim lâu dài? Tôi báo cáo anh là không có kho nào chứa hết được... Tôi tiếp tục đưa anh đi xem một số nơi khác. Đến trưa nghỉ ăn cơm, anh hỏi tôi còn cách nào bảo quản được không? Tôi báo cáo anh chỉ còn cách xuất khẩu lấy đô la, hoặc mua vàng gửi vào ngân hàng lấy lãi là có hiệu quả hơn cả. Khi cần tái nhập ta có ngoại tệ mạnh, nhập sắt thép phế liệu cho luyện kim. Hải Phòng đã thành lập công ti phá dỡ tàu hỏng xuất khẩu, bằng cách mua tàu nước ngoài đem về sông Bạch Đằng phá lấy sắt thép, và các loại vật liệu còn tốt ở trên tàu để xuất khẩu, hoặc bán trong nước lãi rất khá. Anh bảo tôi đưa đi xem. Tôi đưa anh đến cảng Cửa Cấm, nơi công ti đang phá dỡ các loại tàu, sà-lan nhỏ giải bản, ra Đình Vũ xem công nhân đang phá dỡ một con tàu mua của Bun-ga-ri, trọng tải 6.000 tấn, công nhân phá dỡ đang vận chuyển từng tấm thép lớn vào bờ... Anh đồng ý ngay cách làm này. Từ đó cả nước cùng xuất sắt thép phế liệu. Đến khi tôi nghỉ Bộ trưởng Bộ kinh tế đối ngoại, toàn quốc đã xuất được hơn 2 triệu tấn sắt thép phế liệu, thu về hàng trăm triệu $US.

Trong các lần đi xem quai đê lấn biển ở đường 14 Đồ Sơn, đi xem đường xuyên đảo... anh hay hỏi tôi về nước Nhật.

Năm 1978, tôi sang thăm Nhật Bản, tôi đã gửi cho anh một bản báo cáo về đất nước Nhật, anh rất tâm đắc cách đánh giá của tôi. Anh luôn luôn nhắc tôi phải học tập kinh nghiệm của Nhật. Anh còn nói khi bình thưởng quan hệ với Mỹ, anh sẽ đi thăm Nhật Bản và Mỹ. Rồi anh kể luôn cho tôi nghe về cách đánh giá của anh về nước Mỹ. Anh kể: Một đồng chí lãnh đạo Bộ Ngoại giao đi Mỹ về báo cáo với anh: cái gì Mỹ cũng xấu, kinh tế, xã hội... đều kém. Anh hỏi lại đồng chí cán bộ Bộ Ngoại giao: “Mỹ yếu thế mà tại sao Liên Xô, Trung Quốc... đều nể Mỹ? Đồng chí báo cáo thế thì làm sao hợp tác được với Mỹ?” Rồi anh bảo đồng chí đó về chuẩn bị lại, mai báo cáo tiếp. Hôm sau đồng chí đó báo cáo phù hợp với nhận định đánh giá của anh Ba về Mỹ. Anh nói tiếp: cán bộ ta hay nói để chiều ý kiến lãnh đạo, vì ta thường phê phán cái gì Mỹ cũng xấu cả, anh em sợ mất lập trường phải nói theo. Còn đây là báo cáo với lãnh đạo để chuẩn bị làm ăn với Mỹ mà báo cáo thế thì nguy hiểm quá!

Sau đó anh nói sẽ có kế hoạch thăm Mỹ sau khi hai nước bình thường quan hệ. Anh muốn quan hệ với Mỹ lập lại càng sớm càng tốt. Chính ý nghĩ đó nên khi đồng chí Fidel Castro, Tổng Bí thư Đảng cộng sản Cuba, mấy lần mời anh sang thăm Cuba, anh chưa đi ngay. Anh đợi sau khi bình thường quan hệ với Mỹ, anh sẽ đi thăm Cuba và thăm Mỹ cùng một chuyến đi. Vừa có ý nghĩa tạo thế cho Cuba, yêu cầu Mỹ bỏ cấm vận với Cuba, vừa tạo ra thế và lực Việt Nam - Cuba hợp tác với Mỹ, thì thuận lợi hơn cho cả hai nước, thay vì việc đi thăm Cuba ngay bây giờ.

Trong những năm cuối đời, đầu thập niên 80, anh xuống Hải Phòng luôn, hoặc tôi lên Hà Nội, đến nhà riêng anh để báo cáo công việc của Hải Phòng. Anh bàn với tôi về nhiều mặt công việc của đất nước. Tôi hết sức suy nghĩ về tư duy của anh. Tư duy ấy rất rõ về xây dựng kinh tế. Tại sao Bộ Chính trị không có tiếng nói chung với anh? Do Bộ Chính trị không hiểu ý anh, trình độ “bất cập” hay do tính bảo thủ quá nặng, không dám chống anh, nhưng vẫn luôn luôn làm trái ý tưởng của anh? Qua một câu dặn dò của đồng chí Đậu Ngọc Xuân, trợ lí lâu năm của anh Ba nói với tôi: “Anh Ba nói gì với anh, chỉ nên ghi nhớ, nếu làm theo ý kiến anh Ba là trên này “bẻ ghi” ngay đấy”... Tôi hiểu ý anh Đậu Ngọc Xuân, nên tôi thực hiện ý anh Ba có sự lựa chọn và làm rất tích cực và nhanh, đến khi trên Trung ương có phản ứng thì đã thành hiện thực, có hiệu quả rồi, “bẻ ghi” cũng không kịp nữa.

Một hôm tôi đưa anh đi xem nhà máy đóng tàu Phà Rừng, do Phần Lan giúp ta xây dựng. Khi đến thăm nhà máy, đồng chí phiên dịch tiếng Anh chưa đến, đồng chí giám đốc nhà máy dịch cho anh Ba, nói chuyện với chuyên gia Phần Lan. Khi anh Ba nói đến khai thác nguồn nguyên liệu hải sản, đề nghị Phần Lan giúp đỡ đóng các loại tàu đánh cá ra biển xa, đồng chí giám đốc báo cáo với anh Ba: “Tôi không đủ từ tiếng Anh để dịch câu này, đề nghị anh Thành dịch giúp”. Tôi bị động phải dịch, tuy không hay, nhưng cũng suôn sẻ.

Khi về qua phà Bính, anh bảo cứ để nhân dân cùng đi chuyến phà dành riêng cho đoàn xe của anh. Anh rất vui, thăm hỏi mọi người dân trên phà thân mật, chan hoà. Mọi người cùng xúm lại chào và xem Tổng Bí thư, bày tỏ lòng quý mến kính trọng.

Trưa ăn cơm ở nhà số 2 Bến Bính, nhà khách thành phố, anh hỏi tôi học tiếng Anh từ lúc nào. Tôi báo cáo với anh, tôi học từ lúc 41 tuổi, tự học là chính. Anh bảo tôi anh chỉ đọc được tiếng Pháp, còn tiếng Anh chỉ biết mấy câu chào hỏi thôi. Rồi anh nói: “Bộ Capitaliste (tư bản) của Marx, tôi đọc bằng tiếng Pháp ở Côn Đảo đấy! Biết được tiếng nước ngoài là rất tốt, hiểu được người ta nói, dễ thông cảm và hợp tác mới tốt...”.

Anh biết tôi cũng tù ở Côn Đảo, anh hay kể chuyện đấu tranh trong nhà tù cho tôi nghe, kể chuyện âm mưu của kẻ thù đối với người cách mạng khi bị chúng bắt. Anh nói: Thời anh ở tù còn dễ chịu hơn thời chúng tôi, tra tấn ít hơn, đối xử cũng khá hơn, sách báo gửi đến Côn Đảo tự do, nhất là báo Pháp, kể cả báo của Đảng cộng sản Pháp chúng cũng không cấm. Viết thư thoải mái. Còn thời chúng tôi thư viết giấy rộng, giấy hẹp cũng chỉ được 15 dòng. Trước đó chúng chỉ phát một cái “các” do chúng in sẵn, mỗi tháng được gửi về nhà một lần, người tù chỉ gạch những chữ không thích hợp, thí dụ: “Sức khoẻ: có hoặc không”. người tù gạch đi chữ “có” hoặc “không” theo ý mình. Đi lại, khám xét, phải cởi hết quần áo. Thời các anh, đi lại Khám nọ sang Khám kia được tự do. Gửi tiếp tế thoải mái, còn chúng tôi, chúng chỉ cho gửi 3 loại: đường, sữa, kẹo bánh. Tiền không được nhận tiền mặt, mua gì chúng mua cho theo quy định: đường, sữa, bánh kẹo giá rất đắt, nên không ai gửi tiền. Tù nhân gửi thư về gia đình chỉ bảo mua sữa và đường đưa vào ăn chung tất cả. Thực hiện chủ nghĩa cộng sản”. Anh còn bảo: “Thời các đồng chí gian khổ hơn chúng tôi...”.

Anh thường phân tích năng lực, sở trường cán bộ chủ chốt cho tôi nghe, nhất là từng Uỷ viên Bộ Chính trị đương thời. Anh khiêm tốn nói: “Mình có bao giờ dám nghĩ thay Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Ái Quốc tài ba lỗi lạc như thế,... ai dám nghĩ tới... Nên mình phải cố gắng làm tròn nhiệm vụ để thực hiện sự nghiệp Bác để lại”. Mỗi khi kể đến Bác, thái độ, lời nói của anh bao giờ cũng rất tôn kính. Một vài lần anh nói: “Tài ba như Bác Hồ, nhưng giáo dục đảng viên quần chúng thi đua, chỉ động viên tinh thần. Như thế chưa đủ, nhất là nay đã hoà bình trở lại, cần chú ý đến khen thưởng vật chất thì phong trào mới bền...”.

Anh đặc biệt chú ý đến đoàn kết trong Đảng, tránh mọi phe nọ cánh kia, giữa các miền, địa phương trong nước. Anh rất nghiêm khắc với những thái độ kì thị nơi này, nơi khác... Anh kể cho tôi nghe câu chuyện sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, một đoàn cán bộ phụ nữ miền Nam ra thăm miền Bắc, đi thực tế ở cơ sở, đến một số nơi dân còn nghèo quá, nên tiếp đãi không được chu đáo Khi đoàn về Hà Nội, có mấy chị báo cáo với anh là miền Bắc keo kiệt quá! Đến nhà đồng bào, họ không dám mời một bữa cơm v.v... Anh đứng phắt dậy phê phán: “Các đồng chí phải đi xuống cơ sở học tập lại. Nói thế là phủ nhận công lao to lớn của bà con. Cái quý nhất là con người ta đẻ ra, người ta hi sinh gửi con cháu vào Nam đánh giặc... sao lại bảo người ta keo kiệt? Lúc này còn khó khăn về kinh tế, người ta có thế nào cho ăn thế! Các đồng chí phải đi lại thực tế đi, mất lập trường lắm...” Anh nói lại với tôi rất say sưa: “Đấy, chị em đơn giản thế!”

Đối với tôi, anh dặn dò nhiều điều quý giá. Tôi tâm niệm làm sao thực hiện được ý tưởng của anh để lại. Nhưng thật là khó. Khi chuyển đổi nền kinh tế ta đã làm chắp vá, thiếu một cơ sở lí luận vững chắc để tiến lên chủ nghĩa xã hội, sử dụng kinh tế thị trường làm phương tiện và hợp tác, hội nhập quốc tế để tạo ra nguồn vốn xây dựng chủ nghĩa xã hội... Về cuối đời anh Ba, cũng có nhiều ý kiến khác nhau đánh giá về tư duy kinh tế của anh. Cũng có người cho anh Ba chỉ giỏi chỉ đạo chiến tranh bảo vệ tổ quốc. Còn về làm kinh tế thì bảo thủ, nóng vội, không thực tế, muốn đốt cháy giai đoạn.

Tôi là lớp hậu sinh, kém anh 22 tuổi, lại được tiếp cận với anh nhiều, từ thập kỉ 70 cho đến ngày anh qua đời. Tôi không dám có những nhận xét gì lớn về anh. Chỉ qua sự làm việc, và được anh chỉ bảo tận tình, tôi tiếp thu được cái gì thì nói cái đó. Theo chủ quan của tôi, anh Ba, đồng chí Tổng Bí thư của Đảng là người không chỉ giỏi về chỉ đạo chiến tranh, đánh thắng đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước, xứng đáng với sự tin cậy của Bác Hồ và toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Về kinh tế, với sự hạn hẹp về thời gian nghiên cứu, học tập, tuổi lại cao, mà còn minh mẫn đến thế, tư duy kinh tế của anh vẫn liên tục đổi mới, tự mình làm phong phú cho kiến thức của mình, tiếp cận với hiện đại. Theo thiển nghĩ của tôi, nếu chúng ta có một đội ngũ cán bộ có lí luận và thực tiễn, bắt kịp những suy nghĩ và thực hiện tư tưởng chiến lược chỉ đạo kinh tế sau ngày thống nhất đất nước của anh, tạo cơ sở vật chất cho anh sáng tạo, thì đầu “ông 500 nến” sẽ toả sáng hơn nữa trong sự nghiệp xây dựng đất nước phồn vinh, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Do đó nước ta sẽ có bước tiến nhanh hơn, và trong một số anh chị em chúng ta sẽ được xoá bỏ những mặc cảm về anh trong giai đoạn cuối đời của anh tôi: “Đánh thắng giặc ngoại xâm rồi là phải làm kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, trả ơn đáp nghĩa”.

(còn tiếp)

0 Response to 'Chương 9 - Hồi Ký Đoàn Duy Thành'